Tháng hai năm Nguyên Phong thứ sáu (1256), đời vua Trần Thái Tông, Trương Xán đỗ Trại trạng nguyên cùng với Kinh trạng nguyên Trần Quốc Lặc, bảng nhãn Chu Hinh (朱馨), thám hoa lang Trần Uyên (陳淵). Khoa thi này là khoa thi đầu tiên phân ra kinh và trại trạng nguyên của nhà Trần, với 43 người thi đỗ thái học sinh, trong đó 42 người thuộc khu vực từ Ninh Bình trở ra.
Ông làm quan đến chức Hàn lâm Học sĩ. Một số làng chài đã lập đền thờ ông coi như một vị Phúc thần chuyên cứu giúp những người đi biển.
Trương Đỗ không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết ông sống vào thế kỷ XIV thời nhà Trần, lớp kế tục của danh thần Chu Văn An (1292 - 1371), làm quan đời vua Duệ Tông (1373 - 1377) và Phế Đế (1377 - 1388). Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, Trương Đỗ quê gốc ở làng Phù Đới, huyện Đồng Lại, xứ Đông (nay là thôn Phù Tải, xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương), ra ngụ ở phường Cơ Xá và Nghi Tàm, thành Thăng Long đã nhiều năm.
Vẫn trầm mặc trên văn bia người xưa nơi Văn Miếu Quốc Tử Giám. Trương Công Giai danh thơm từ đó... Nhưng người đương thời còn ít biết về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của ông. Đây là viên ngọc tâm hồn quý, đáng soi cho mọi tâm hồn trong sáng noi theo. Thế mà đã có một thời gió cát, viên ngọc ấy bị phủ lấp và rồi cũng có lúc bị nhòa đi ...
Trương Hán Siêu (chữ Hán: 張漢超;?-1354), tên tự là Thăng Phủ, hiệu Đôn Tẩu, quê ở làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, Ông là một danh sĩ nổi tiếng đời Trần, từng là môn khách (khách trong nhà) của Trần Hưng Đạo, sau làm quan từ triều Trần Anh Tông đến triều Trần Dụ Tông, lúc chết được tặng tước Thái bảo, Thái Phó và được thờ ở văn Miếu.
Theo gia phả Trương Trung ở Đồng Phú ,Đồng Hới , Quảng Bình; cụ Trương Khánh Thụy, huý Lắng là tổ đời thứ 6; sinh giờ Tuất ngày 25 tháng năm Đinh Hợi, niên hiệu Minh Mạng thứ tám (1827); mất ngày 10 tháng 6 ( nhuận ) năm Quý Dậu niên hiệu Tự Đức thứ hai mươi sáu (1873); là con thứ sáu của quan viên phụ Trương Quang Thống, cháu nội của quan Ngũ đội trưởng Trương Quang Châu, hậu duệ của quan Quản lãnh Trương Trung Hiếu (Triệu tổ của dòng họ Trương Trung).
Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế (chữ Hán: 張登桂, 1793-1865) là một quan Đại thần phụ chính nhà Nguyễn, phụng sự trong bốn triều đầu tiên của nhà Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức), từng là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác. Trương Đăng Quế, tự là Diên Phương, hiệu là Đoan Trai hay Quảng Khê Tẩu (ông già Quảng Khê), sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) quê làng Mỹ Khê Tây, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.