Ngự sử đại phu Trương Đỗ

20:42 - 25/05/2017 Tin tổng hợp Admin 2074
Tính cách Trương Đỗ  được Toàn thư thuật lại như sau: "Đỗ là ngưi thanh liêm, không thích giao du nhiều, tính tình phóng khoáng và có chí ln. Lúc còn nh, có ln đi chơi hồ Tây xem tướng quân tập bắn, nói đùa rằng: - Nghề ấy có khó gì! Vị tướng ngạc nhiên: - Vậy mi có bn trúng được không? Trương Đỗ đáp: - C th xem! Bàn bắn ba phát trúng c ba. Vị tưng kinh ngạc, mun nhận làm con nuôi song Đỗ không theo. Sau thi đỗ tiến sĩ, làm quan có tiếng thanh liêm....

B
ình sinh, ông rất khâm phục danh nho họ Chu, đi vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369) đã dũng cm dâng "Thất trm s" xin chém by tên gian thn.
V
ào năm Bính Thìn (1376) quân Chiêm thành quấy rối biên gii phía nam. Vua Trần sai quan Hành khiển Đ T Bình đem quân vào gi châu Hoá.  Vua Chiêm là Chế Bồng Nga đem 15 mâm vàng dâng triều đình nhà Trần tạ lỗi. Đỗ Tử Bình biển th đồ lễ, tâu sai với triều đình là Chế Bồng Nga ngạo mạn hỗn xược, phi trng trị, cho nên vua Trần giận lm mới quyết ý thân chinh. Tháng 6 năm ấy, Duệ Tông xuống chiếu xuất quân. Triều Trần lúc này sau kỳ tích ba lần thắng Nguyên - Mông, đang thoái trào. Gian thần lộng hành, loạn lạc bất yên, trăm họ lầm than, gây chiến tranh lúc này là không nên. Các quan ngự sử trung tán Lê Tích, đại tướng quân Đỗ Lễ đã can ngăn không được.

Ngự sử đại phu Trương Đỗ dâng "bãi chiến sớ" ba lần, trong đó có phân tích rõ: "Chiêm thành trái mệnh, tội ấy đáng chết. Song địch ở cõi tây xa cách, núi sông hiểm trở. Nay bệ hạ lại mới lên ngôi, chính hóa chưa nhuần thấm tới phương xa, nên sửa văn đức cho họ tự phải thần phục. Nếu họ không theo, lúc ấy cử tướng đi đánh cũng chưa muộn". Can vua ba lần, vua không nghe, Trương Đỗ bèn treo mũ, ấn từ quan bỏ về.

Tháng 10, Duệ Tông duyệt quân ở Bạch Hạc; tháng chạp từ Thăng Long dẫn 12 vạn quân lên đường. Tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1377), quân Trần tiến vào cửa Thị Nại (Quy Nhơn) đánh đồn Thạch Kiểu, rồi tấn công kinh đô Đồ Bàn. Chế Bồng Nga rút quân ra ngoài bao vây, nhưng lại cho lính trá hàng, khai vua Chiêm đã bỏ thành chạy trốn, phải tiến vào chiếm thành ngay. Duệ Tông tưởng thật, thúc quân hối hả vào Đồ Bàn, đại tướng Lễ ngăn cũng không được. Quân Trần sa vào bẫy phục binh, bị đánh tơi bời từ bốn phía, thua to, Duệ Tông trúng tên chết trong đám loạn quân. Đỗ T
Bình và Hồ Quý Ly ở hậu quân không dám đem binh ứng cứu.

Bình luận sự kiện ba lần dâng "bãi chiến sớ" của Trương Đỗ, về sau sử gia Ngô S
ĩ Liên viết: "Trương Đỗ nói không giấu lời, thế là xứng chức; nói đến ba lần, thế là cố can; mà vua không nghe, thế là tâm trí vua đã mê rồi. Người có trách nhiệm phải nói, không được nghe thì đi, thế là sự tiến lui của Đỗ hợp lẽ phải vậy. Tuy lời nói thẳng thường trái tai vua, mà lợi cho thân vua, nên lấy việc này làm gương..." Duệ Tông mất trong chiến tranh vì không nghe lời can của các trung thần mà nổi bật là Trương Đỗ.

Sau đó, triều đình Phế Đế mời ông trở lại làm quan thăng đến chức Đình úy tự khanh, Trung Đô phủ tổng quản cho đến khi về hưu và mất. Như vậy, Trương Đỗ không chỉ là quan ngự sử đại phu mà còn làm Tổng quản phủ Trung Đô gồm hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức - tức kinh thành Thăng Long - trong những năm cuối đời Tr
ần. Mảnh đất nghìn năm văn hiến đã tự hào có một bậc danh thần khí phách Chu Văn An, lại có thêm một tổng quản Thăng Long Trương Đỗ thanh liêm, cương trực, dũng cảm đáng được kính trọng...

Những tin cũ hơn

Thượng thư Tiến sỹ Trương Công Giai (1665-1728)

Thượng thư Tiến sỹ Trương Công Giai (1665-1728)

— 25 Tháng Năm 2017

Vẫn trầm mặc trên văn bia người xưa nơi Văn Miếu Quốc Tử Giám. Trương Công Giai danh thơm từ đó... Nhưng người đương thời còn ít biết về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của ông. Đây là viên ngọc tâm hồn quý, đáng soi cho mọi tâm hồn trong sáng noi theo. Thế mà đã có một thời gió cát, viên ngọc ấy bị phủ lấp và rồi cũng có lúc bị nhòa đi ...

Thái phó Trương Hán Siêu (?-1354)

Thái phó Trương Hán Siêu (?-1354)

— 25 Tháng Năm 2017

Trương Hán Siêu (chữ Hán: 張漢超;?-1354), tên tự là Thăng Phủ, hiệu Đôn Tẩu, quê ở làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, Ông là một danh sĩ nổi tiếng đời Trần, từng là môn khách (khách trong nhà) của Trần Hưng Đạo, sau làm quan từ triều Trần Anh Tông đến triều Trần Dụ Tông, lúc chết được tặng tước Thái bảo, Thái Phó và được thờ ở văn Miếu.

Quan phủ thừa Trương Khánh Thụy (1827 - 1873)

Quan phủ thừa Trương Khánh Thụy (1827 - 1873)

— 25 Tháng Năm 2017

Theo gia phả Trương Trung ở Đồng Phú ,Đồng Hới , Quảng Bình; cụ Trương Khánh Thụy, huý Lắng là tổ đời thứ 6; sinh giờ Tuất ngày 25 tháng năm Đinh Hợi, niên hiệu Minh Mạng thứ tám (1827); mất ngày 10 tháng 6 ( nhuận ) năm Quý Dậu niên hiệu Tự Đức thứ hai mươi sáu (1873); là con thứ sáu của quan viên phụ Trương Quang Thống, cháu nội của quan Ngũ đội trưởng Trương Quang Châu, hậu duệ của quan Quản lãnh Trương Trung Hiếu (Triệu tổ của dòng họ Trương Trung).

Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế (1793-1865)

Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế (1793-1865)

— 25 Tháng Năm 2017

Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế (chữ Hán: 張登桂, 1793-1865) là một quan Đại thần phụ chính nhà Nguyễn, phụng sự trong bốn triều đầu tiên của nhà Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức), từng là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác. Trương Đăng Quế, tự là Diên Phương, hiệu là Đoan Trai hay Quảng Khê Tẩu (ông già Quảng Khê), sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) quê làng Mỹ Khê Tây, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

Nguyễn Hữu Tiến (Trương Xuân Trinh: 1901-1941)

Nguyễn Hữu Tiến (Trương Xuân Trinh: 1901-1941)

— 25 Tháng Năm 2017

Nguyễn Hữu Tiến tên thật là Trương Xuân Trinh, Ông sinh ngày 5 tháng 3 năm 1901 tại xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Ông còn có tên gọi là thầy giáo Hoài hay Hai Bắc Kỳ, xứ ủy viên Nam Kỳ, là tác giả của mẫu quốc kỳ Việt Nam.