Việt Nam, rồng xuất hiện từ rạng đông lịch sử dân tộc, với tên gọi là "Giao Long" với tục xăm mình hình Rồng của cư dân Văn Lang là bộ tộc có thủ lĩnh là Vua Hùng đã thờ thần Rắn, thần Rồng – Một sức mạnh sông nước trong buổi cha ông ta từ miền núi xuống đồng bằng khai hoang lấn biển, là nỗi sợ hãi lúc đầu phải tôn thờ mong đáng linh thiêng phù trợ rồi mới biết thờ tổ tiên và anh hùng liệt sĩ có công với dân. Về sau sức mạnh bí ẩn của thiên nhiên chắp cánh cho khát vọng của con người về mưa thuận gió hòa. Con Rồng tinh thần bay bổng từ văn minh nông nghiệp lúa nước lên chín tầng mây là mưa tưới ruộng mỗi khi có tiếng trống Đồng Đông Sơn gióng lên phỏng theo tiếng sấm ở lễ cầu mưa. Hình tượng Rồng sớm được định hình, định hướng tư duy con người và truyền tải qua các đời bằng nhiều loại hình văn hóa – nghệ thuật.
Đất nước mang hình rồng
Rồng hóa thân thần thiên tình sử Lạc Long Quân cùng tiên Âu Cơ hoài thai bọc trăm trứng nở trăm con, 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi hòa hợp trong cộng đồng Văn Lang, sinh thành mãi mãi dòng giống Việt Nam có gia phả chúng "Rồng Tiên".
Rồng hóa thân thành tướng của Vua Hùng, Hai Bà Trưng, rồng che chở Đức Tiên Đế, người có công thống nhất giang sơn, lập nên nước Đại Cồ Việt độc lập tự chủ đầu tiên, mở đầu thời kì huy hoàng dựng nước lần thứ hai. Con rồng từ bọc trăm trứng bay lên sương mù trời Đại La bên tả ngạn sông Hồng trước thuyền ngự Lý Thái Tổ, định đô Thăng Long.
Không phải ngẫu nhiên mà hình đất nước Việt Nam từ thuở khai thiên lập địa là sự cách điệu hình rồng.
Từ miền Bắc, khởi nguồn có Bái Tử Long, Hạ Long, Bạch Long Vĩ ở phía đông bắc, có Thăng Long ở trung tâm nước qua con cầu được mô phỏng thiết kế theo tên gọi "Hàm Rồng" địa linh mà thuyết "Phong thổ" cho là "mả táng Hàm Rồng" nơi lắm vua nhiều chúa, cửa ngõ và yết hầu giao thông nơi miền Trung anh dũng kiên cường vào với miền Nam thần đồng có vùng đất Cửu Long (9 con rồng) gồm 12 tỉnh trong đó có đất mũi Cà Mau, là vị trí chiến lược về chính trị, quốc phòng… là vựa lúa lớn nhất nước. Mỗi miền là mạch máu giao thông lớn về tim rồi từ tim đi nuôi cơ thể tổ quốc hình chữ S uốn lượn như hình Rồng, có núi cao đại ngàn phía tây kéo dài làm vây, có biển Đông bao la sóng vỗ vẫy vùng thỏa chí.
Đất nước Việt Nam đâu cũng cảnh "làng ta phong cảnh hữu tình – dân cư giang khúc như hình con long", đâu cũng con người thấp thoáng dáng "Rồng bay phượng múa", sống thanh cao "trứng rồng lại nở rồng", tính tình đôn hậu, khách đến nhà thì nhún nhường, tôn trọng "mấy khi rống đến nhà tôm"... Người Việt biết ước mơ "Long Vân Khánh Hội" như người Hoa, biết vượt ngũ môn như cá chép để hóa rồng như người Nhật…
Rồng trong văn hóa truyền thống
Hình tượng rồng trong văn hóa truyền thống Việt Nam xét về mặt nguồn gốc hóa rồng còn phong phú lắm. Tre, trúc hóa rồng trong tranh rồng, trong thơ "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi (Từ độ hóa rồng càng lạ nữa) Nguyễn Du ở truyện Kiều, bốn lần nói về rồng, rồng trong thơ trào phúng của Tú Xương, Tú Mỡ; rồng trong "Nhật ký trong tù" (Rồng quấn vòng quanh chân với tay, Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, Nhà lao mở cửa ắt rồng bay) và trong kịch "Con rồng tre" của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; rồng trong trò chơi, lễ hội dân gian rồng rắn lên mây, đua thuyền rồng, múa rồng; rồng trong các câu chuyện về tự nhiên có liên quan đến đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp (Rồng đen lấy nước thì mưa. Rồng trắng lấy nước thì vua đi cày)…
Tất cả các triều đại phong kiến cha truyền con nối đều mượn oai rồng như cáo mượn oai hùm để tô vẽ cho mình nào là "Long thể", "Long bộ", "Long sàng" để đọc chiếm "sân rồng", "bệ rồng" đều dùng hình tượng rồng như một thứ vũ khí tinh thần trang trí trong các lăng miếu, đến chùa từ triều đình đến làng bản để thần thiêng hóa quyền uy phong kiến.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, "Rồng năm móng vua quan thành cát bụi" (Chế Lan Viên). Tình cảm "Từ thủa mang gươm đi mở nước, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long" (Huỳnh Văn Nghệ) đã có trước đây nhiều thế kỷ, nay được nhân lên trong niềm sảng khoái, tự hào thành công của Thăng Long để ra đời thêm những tên, địa danh khác…
Trong hàng những con rồng châu Á, rồng Việt Nam vừa đẹp ở tư thế bay lên, vừa đẹp ở bản chất của hiện tượng ngôn ngữ văn hóa nghệ thuật, nói lên tính đôn hậu cùng khát vọng của nhân dân và mang dấu ấn thịnh suy của các triều đại phong kiến.
Cha ông ta dùng con Rồng đặt tên cho một năm trong 12 chi. Năm rồng là năm đại cát. Theo cách tính và tâm lý dân gian, bước vào năm Nhâm Thìn 2012, năm Thìn thứ hai của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ thứ 3 với nhiều hứa hẹn tốt đẹp.
Rồng khác nhau qua các thời kỳ với các bước đi tạc hình:
- Rồng thời Trần (thế kỷ XII – XIV) dáng cao to, khí phách của những võ công oai hùng thắng Nguyên Mông. - Rồng thời Lê (thế kỷ XV) là rồng thời Trần tiếp tục vươn lên theo vận nước hồi phục sau hai thập kỷ đất nước bị nhà Minh kìm kẹp. Rồng thời Mạc (thế kỷ XVI) vừa đa dạng vừa đa năng trong bước phát triển phong phú các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian. - Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam xuống dốc, phong trào quần chúng nhân dân dành lại hình tượng rồng cho khát vọng phồn thực và công bằng xã hội. Rồng xuống đậu nơi đất vách nhà tranh và quây quần cùng gà, lợn, chuột, mèo, trâu, chó… (trong trang dân gian Tết). - Rồng thời Nguyễn có mặt ở địa bàn rộng rãi chưa từng thấy trong lịch sử xưa nay, Rồng xuất hiện trong công trình kiến trúc, bàn thờ của các gia đình bậc trung mọi làng bản. Hình tượng rồng vẫn tập trung tính hướng nội, gắn với tâm linh dân dã. Dáng rồng hình xoắn đuôi, râu vẩy cá chép, sừng hươu, vuốt chim ưng, thân rắn uốn lượn khỏe khoắn. |
Xuân Lực sưu tầm
Đầu xuân đi lễ chùa cầu cho quốc thái, dân an từ lâu đã trở thành một sinh hoạt tính ngưỡng của người dân Việt Nam, trong đó có lễ dâng sao giải hạn (lễ giải hạn). Đây được coi là thủ tục quan trọng đối với các thành viên trong gia đình khi một năm mới bắt đầu.
Tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm hiện nay còn lưu giữ được gần 250 gia phả của 28 họ, bao gồm các họ: Trần, Nguyễn, Vũ, Đinh, Bùi, Đỗ, Lê, Doãn, Dương, Hoàng, Đặng, Đàm, Đoàn, Ngô, Phạm, Lương, Phan, Hà, Nhữ, Hồ, Trương, Lưu, Mạc, Nghiêm, Thẩm, Trịnh, Tường, Vương. Đây là một phông tư liệu quan trọng cần được bổ sung và có kế hoạch nghiên cứu khai thác. Trung tâm Phả học thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm được thành lập năm 2002, chúng ta có nhiều cơ hội tiếp cận các thông tin về gia phả dòng họ.
Trong tiềm thức của tôi từ thủa ấu thơ, Cố đô Huế được coi như dinh luỹ cuối cùng của chế độ phong kiến thối nát, phản động. Và rồi, Huế lại nổi tiếng với những chiến tích của mùa Xuân Mậu Thân, với mười một cô gái Sông Hương trên dòng sông phẳng lặng... Năm 1970, khi hăm hở làm chuyên đề nghiên cứu tập sự của sinh viên năm thứ hai về Tôn Thất Thuyết với sự hướng dẫn và cổ vũ của GS Đinh Xuân Lâm, một trong Tứ trụ của nền sử học hiện đại nước nhà ( Lâm, Lê, Tờn, Vượng), tôi lại có dịp dung nạp những tư liệu về kinh đô thất thủ sau sự biến Đồn Mang Cá cùng phong trào Cần Vương.
Hai Bà Trưng (mất ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43) là tên gọi chung của Trưng Trắc (chữ Hán: 徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai chị em (nhiều tài liệu nói là sinh đôi) là anh hùng dân tộc của người Việt. Hai Bà Trưng khởi binh chống lại quân Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là nữ vương. Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, tục truyền rằng vì không muốn chịu khuất phục, hai Bà đã nhảy xuống sông tự tử. Đại Việt Sử ký Toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam.
Cho đến nay, trên bình diện quốc tế, các di sản văn hoá và thiên nhiên không chỉ thừa nhận là những tài sản vô giá của mỗi quốc gia dân tộc mà còn được coi là những tài sản chung của nhân loại.