Trương Gia Hội (1822-1877) tự Trọng Hanh - sĩ phu yêu nước

20:39 - 25/05/2017 Tin tổng hợp Admin 1790

Năm Tự Đức thứ 2 (1849), Trương Gia Hội đỗ cử nhân cùng khoa với Nguyễn Thông và Phan Văn Trị, được bổ làm Huấn đạo Long Thành, rồi lần lượt làm Tri huyện Trà Vinh và Tri phủ Hoằng Trị (Bến Tre).
Năm 1867, quân thực dân Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, ông cùng Nguyễn Thông và một bạn hữu khác “tỵ địa” [2] ra Bình Thuận, rồi nhận lệnh trở vào Nam lo việc tiếp tế cho nghĩa quân đang chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài [3]. Về sau, khi triều đình ra lệnh bãi binh, ông được cử làm Tri phủ huyện Hàm Thuận thuộc Bình Thuận.
Năm 1875, ông được điều động ra Huế, giữ chức Giám sát ngự sử; sau thăng Hộ khoa chưởng ấn, rồi Lang trung bộ Binh.
Tháng 11 năm 1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất. Sau khi thành thất thủ, ông được thăng làm Án sát Hà Nội, để cùng với Giám mục Mgr. Bohier, Linh mục Mgr. Dangelzer ở nhà thờ Kim Long và Tổng đốc mới Hà Ninh là Trần Đình Túc đi thương thuyết với viên chỉ huy Pháp là Francis Garnier [4].
Việc chưa xong, thì Lưu Vĩnh Phúc đã mang quân Cờ đen từ Hương Canh (nay thuộc Vĩnh Phú) đến Hà Nội khiêu chiến. Francis Garnier liền dẫn quân ra ngoài thành đón đánh, nhưng vừa ra tới Cầu Giấy thì ông bị quân của Lưu mai phục giết chết. Tức giận, quân Pháp bắt Trương Gia Hội giam mấy hôm.
Sau đó, theo lệnh của Trần Đình Túc, ông và Nguyễn Trọng Hiệp đi nói với Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết là không nên đánh nữa. Đến khi Khâm sai Toàn quyền đại thần Nguyễn Văn Tường cùng đại úy Philastre (sử Nguyễn ghi là Hoắc Đạo Sinh) ra Hà Nội giảng hòa, quân Pháp thuận trả lại 4 tỉnh (Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định) vừa chiếm, thì ông lại được cử đi ngay Ninh Bình để nhận lấy tỉnh thành này. Xong việc, ông trở lại Hà Nội để lo việc hiểu dụ dân bên lương bên giáo, vì lúc bấy giờ họ đang thù hằn nhau.
Năm 1875, Tuần phủ Bình Thuận Lê Đình Tuấn có việc bất hòa với Pháp, vua Tự Đức biết Trương Gia Hội "đã từng làm Tri phủ ở đây, địa thế và nhân tình đều am thuộc" bèn cho đến thay [5].
Ngày 10 tháng 11 năm 1877 (Đinh Sửu), ông mất tại chức ở tuổi 55, được an táng tại làng Hà Thủy, huyện Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
Theo sử nhà Nguyễn, thì Trương Gia Hội là "người trầm tĩnh, có tri thức, làm việc lanh lợi giỏi giang, thường lấy điều thanh đạm tự xử, chẳng những bạn đồng liêu tôn phục mà quân Pháp phần nhiều cũng tôn kính. Ông có hai người con là Trương Gia Tuấn được ấm thụ chức Kiểm thảo, và Trương Gia Mô [6] được chức Đãi chiếu [7]. Về sau, hai ông đều là chí sĩ hy sinh vì nước.
 

Chú thích

  1.  Đây không phải là tỉnh Bình Dương hiện nay. Khoảng năm 1790, huyện Bình Dương là một đơn vị hành chánh cấp tổng. Năm 1808, nó trở thành một huyện trong bốn huyện của phủ Tân Bình. Theo Nguyễn Đình Đầu, thì Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên gần khắp huyện Bình Dương và huyện Tân Long hồi ấy (Xem Nguyễn Đình Đầu, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh [Tập I], NXB TP. HCM, 1987, tr. 196).
  2.  Tỵ địa là trào lưu bất hợp tác với quân Pháp của tầng lớp quan lại, nho sĩ và những người yêu nước ở Nam Kỳ. Họ lánh khỏi các vùng bị quân Pháp chiếm đóng.
  3. Từ điển nhân vật lịch Việt Nam, tr. 922.
  4.  Theo Liệt truyện, tr, 838.
  5.  Theo Liệt truyện, tr. 839.
  6.  Xem trang: Trương Gia Mô.
  7.  Trích Liệt truyện, tr. 839.

 

Những tin cũ hơn

Tiến sĩ thời Lê sơ Trương Đức Quang: Vượt khó thành tài

Tiến sĩ thời Lê sơ Trương Đức Quang: Vượt khó thành tài

— 25 Tháng Năm 2017

Tiến sĩ Trương Đức Quang (1478 -?), người xã Ngọc Quyết, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc thôn Chuế, xã Hoằng Yến, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa), 24 tuổi đỗ Đệ Nhị Giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống năm thứ 5 (1502), thời vua Lê Hiến Tông. Ông là một trong 8 Tiến sĩ họ Trương Đại Việt đã được khắc tên tuổi trong số 82 bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám Thăng Long. Ông làm tới chức quan Đề hình Giám sát Ngự sử và từng được triều đình Lê Sơ cử đi sứ Nhà Minh (Trung Quốc).

Tự Khanh Hoành diễm hầu Trương Minh Lượng (1636-1712)

Tự Khanh Hoành diễm hầu Trương Minh Lượng (1636-1712)

— 25 Tháng Năm 2017

Trương Minh Lượng tên húy là Trường, thụy là Thanh Cần. Ông sinh năm Bính Tý (1636), mất ngày 24/2 năm Nhâm Thìn (1712). Quê ông là xã Ngô Xá huyện Duy Tân, nay là thôn Ngô Trung, xã Tiên Nội, huyện Duy Tiên. Năm 65 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Chính Hoà thứ 21 (1700), đời Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Tự khanh.

Sách lịch sử về Lưỡng bộ Thượng thư Trương Công Hy

Sách lịch sử về Lưỡng bộ Thượng thư Trương Công Hy

— 25 Tháng Năm 2017

Giữa những ngày cuối năm, nhà văn Lê Khôi (Hội Nhà văn Đà Nẵng) đã cho ra mắt bạn đọc cả nước cuốn truyện lịch sử có tiêu đề “Lưỡng bộ thượng thư Trương Công Hy - Người con xứ Quảng”.

Tiến sỹ Trương Đỗ - Danh nhân đất Việt thời Trần

Tiến sỹ Trương Đỗ - Danh nhân đất Việt thời Trần

— 25 Tháng Năm 2017

Kết thúc những trang viết về vương triều Trần, sách Đại Việt sử ký toàn thư, phần Bản kỷ quyển IX cho biết: “Trở lên là nhà Trần 12 đời vua, từ năm Bính Tuất - 1226 đến năm Kỷ Mão – 1399, cộng là 174 năm, và nhà Hậu Trần hai đời vua, cộng 7 năm”(1).

Bài ký trên Văn bia số 35 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội

Bài ký trên Văn bia số 35 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội

— 25 Tháng Năm 2017

Nội dung bài ký trên văn bia số 35, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội ghi lại việc thi cử, tuyển chọn người tài, và vinh danh các Tiến Sĩ đỗ trong khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa năm thứ 6 (1640). Trong văn bia có ghi về cụ Trương Quang Tiền (1615-1677) người xã Kim Hoạch, huyện Thụy Nguyên (nay thuộc xã Thiệu Phúc, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Đông các Hiệu thư, tước Mai Lâm tử. Sau ông đổi tên là Trương Luận Đạo