Thượng Thư Trương Công Hy (1727 - 1800) người làng Thanh Quýt (xưa là tổng Thanh Quýt, phủ Điện Bàn, Quảng Nam). Ông đỗ Nhiêu học rồi Hương cống dưới triều chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Là thầy dạy của ấu chúa Nguyễn Phúc Dương, cùng thời với các thầy giáo Trương Văn Hiến, Trương Văn Hạnh, sau theo nhà Tây Sơn và được trọng dụng. Đến triều Tây Sơn, ông được cử làm Tri phủ Điện Bàn (Thái Đức), Khâm sai Quảng Nam trấn rồi Hình bộ Thượng thư, truy phong Binh bộ Thương thư (Quang Trung, Cảnh Thịnh). Ông có nhiều công lao trong sự nghiệp giúp nhà Tây Sơn thống nhất đất nước và là một vị quan nổi tiếng thanh liêm, được nhân dân ngưỡng mộ.
Năm 1995, lăng mộ của ông tại làng Thanh Quýt (nay là xã Điện Thắng Trung) đã được xếp hạng là Di tích lịch sử được bảo vệ) và nay một lần nữa đang được trùng tu và lập hồ sơ công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân của lịch sử và binh biến, tài liệu liên quan đến ông hầu như rất ít, nên việc tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của ông rất khó khăn.
I- Dòng dõi tộc Trương Công Thanh Quýt
Theo văn tế đọc hàng năm tại nhà thờ tộc Trương Công làng Thanh Quýt, thì:
Tổ tiên xưa
Bắc địa quê hương
Lạc hồng dòng dõi
Trụ tại ấp Ba Viên, đại tộc ở Thừa tuyên Thanh Nghệ
Nước non một gánh sức bền vai
Chung lưng chống ngoại xâm, nhiều nhánh vào Trị Thiên, Nam Ngãi
Sóng gió bốn bề tay vững lái...
Như vị tổ chúng ta
Thời Lê triều thịnh trị
Đức Thánh tổ tại vì
Từ Nghệ An lên đường Nam tiến
Bước ngắn dài lắm nỗi bâng khuâng
Đến Thanh Loa nhận điểm định cư....
Theo gia phả tộc Trương Công Thanh Quýt di cư vào đây từ xã Ba Yên, huyện Hưng Nguyên, phủ Anh Đô, Nghệ An.
Trước Thượng thư Trương Công Hy (đời thứ 7) có nhiều vị tổ giữ nhiều chức vụ quan trọng từ thời nhà Trần, Hậu Lê:
Có thể kể đến ngài Tiền hiền Trương Công Trung (được sắc phong Tiền hiền thời Khải Định) là Đặc tiến Thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ, tổ đời thứ 3 là Đặc tiến Kim tử Thận lộc Đại phu Trương Công Lễ, tổ đời thứ 5 (tức ông nội ông) là Đặc tiến Kim tử Vinh Lộc Đại phu Trương Công Yên và cha đẻ của ông là Nội bộ toàn nhị thuyền Ngũ trưởng Tân Đức bá Trương Công Kỳ...
(Đời thứ 12, hậu duệ của Thượng thư còn có 3 anh em Trương Công Cừu, Thạc sĩ Văn chương Pháp, nguyên Bộ trưởng Giáo dục; Trương Công Đương, tỉnh trưởng Quang Nam thời Ngô Đình Diệm cũng đều là những người có tiếng thanh liêm).
Tộc Trương Công Thanh Quýt nhìn chung không giàu có, nhưng vốn có truyền thống hiếu học và thanh bạch. Ngày nay mỗi dịp tế lễ tại từ đường, con cháu vẫn nghe giọng đọc văn tế vang lên những câu đầy khích lệ:
Xưa tổ tiên lắm bậc thành tài
Nay con cháu nhiều người nối dõi
Vang tiếng tông môn hiếu học đem khả năng phục vụ dân sinh
Nổi danh khai quốc công thần góp công sức canh tân xã hội
(Theo tài liệu cụ Trương Công Y, đời 12 để lại)
II-Trương Công Hy, một nhà giáo tham chính
Theo gia phả, thượng thư Trưong Công Hy là tổ đời thứ 7 của tộc Trương ở làng Thanh Quýt, Điện Bàn, Quảng Nam, hiện nay hậu duệ đã có 17 đời. Nếu tính theo các nhà dân tộc học, mỗi đời từ 20-25 năm, thì tổ tiên của ông vào Nam khoảng thời kỳ Nguyễn Hoàng vào trấn giữ phía nam Hoành Sơn lập ra xứ Đàng Trong từ phủ Anh Đô, huyện Quang Hưng, xã Ba Viên thuộc Thừa tuyên Nghệ An.
Do từ đường của tộc bị cháy và xây dựng lại năm Ất Mão 1915, nên nhiều tài liệu đã thất lạc. Qua truyền miệng từ các thế hệ trong tộc và một ít tư liệu còn lưu trữ trong tộc phả, có thể biết ông sinh năm 1727 và mất năm 1800 lúc đã về nghỉ hưu và trước khi Gia Long giành lại chính quyền từ tay Tây Sơn năm 1802. Ông thi đỗ kỳ Đệ tam (Nhiêu học) và Đệ tứ (Hương cống) trong một kỳ thi dưới triều Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765). Với học vị này, được miễn sai thuế suốt đời, có thể ra Kinh dạy học và được bổ làm Tri huyện Tri phủ.
Khi Tây Sơn cướp chính quyền ở Phú Xuân, xuất phát từ khẩu hiệu ban đầu “tôn phù Hoàng tôn Dương” và nhận thức: "Trẫm là kẻ áo vải đất Tây Sơn, không có một tấc đất, tự nghĩ mình tài đức không theo kịp cổ nhân mà đất đai rộng lớn như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu ngựa", nên trong công cuộc xây dựng chính quyền mới, Quang Trung rất chú trọng "cầu hiền tài". Đối với những Nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại trong chính quyền cũ có tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước, cả Nguyễn Nhạc và Quang Trung đều cố gắng thuyết phục và sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài năng, đức độ. Nhưng bên cạnh đó, với chính sách quản lý nghiêm minh, các quan lại đương thời đã hết lòng vì dân vì nước, sống thanh bần, mà Thượng thư Trương Công Hy là một dẫn chứng.
Theo lời kể trong dòng tộc, trước đó, Trương Công Hy và Trương Văn Hiến là các thầy dạy các ấu chúa Nguyễn ở Phú Xuân. Trương Văn Hạnh là một đại thần thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Cả ba đều có họ hàng với nhau. Năm Ất Dậu (1765) Võ Vương mất. Vì thế tử đã mất từ lâu, con lại còn quá nhỏ nên Võ Vương di chiếu lập người con thứ hai của Vương là Nguyễn Phúc Luận lên nối ngôi. Trong triều có người chuyên quyền, thông đồng lập di chiếu giả, lập người con thứ mười sáu của Võ Vương là Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi chúa. Thuần khi ấy mới có 12 tuổi. Các quan trong triều cúi đầu tuân mệnh. Riêng có Trương Văn Hạnh tỏ ý phản đối nên bị giết. Trương Văn Hiến sợ bị vạ lây bèn bỏ vào Nam và trở thành thầy dạy học của ba anh em Tây Sơn (Theo tài liệu trong sách Võ nhân Bình Định). Riêng Trương Công Hy, theo lời hậu duệ Trương Công Vọng, đời thứ 12, kể lại, đã đưa ấu chúa Nguyễn Phúc Dương vào ẩn náu ở Hành cung Trường Định và sau đó về quê ẩn dật cho đến khi liên lạc được với Nguyễn Nhạc tại Hội An. Theo lời kể, thầy giáo Hiến là người đã có công tiến cử. Nhờ tài năng và đức độ, ông đã lần lượt thăng tiến lên các chức vụ như đã nói ở trên.
Theo tài liệu của nhà văn, nhà nghiên cứu Lê Khôi, tác giả cuốn “Thượng thư Trương Công Hy, người con xứ Quảng” ( NXB Văn Học, 2012) cho biết: Ngày mồng 3 Tết năm Ất Mùi 1775, tướng Hoàng Ngũ Phúc (nhà Trịnh Đàng Ngoài) đem quân đánh Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phúc Thuần đưa gia quyến cùng quan quân chạy theo đường biển vào Quảng Nam. Đáng lẽ ấu chúa Nguyễn Phúc Dương cũng đi theo, nhưng ông Trương Công Hy (là thầy dạy ấu chúa) lo sợ điều không hay, nên cùng bàn với các bạn đồng liêu đưa Phúc Dương theo đường Bạch Mã vào lánh nạn tại hành cung bên tả ngạn sông Câu Đê, phía bắc Đà Nẵng. Sau đó, Trương Công Hy liên lạc với người thân tại Thanh Quýt giúp ông chăm sóc Công tử Dương. Mặt khác tìm cách liên lạc với chúa Nguyễn Phúc Thuần, bấy giờ đang lánh nạn ở Sơn Trà. Ông cùng các đại thần Nguyễn Phước Tình, Nguyễn Phước Kính, Đỗ Thành Nhân làm sơ tâu lên chúa: “Hoàng Tôn Dương là người hiền đức, trong ngoài đều ngưỡng vọng, xin sớm lập ngôi thế tử để mưu đồ việc khôi phục...”. Tuy không vừa lòng, Phúc Thuần cũng miễn cưỡng lập Phúc Dương làm Đông cung Thế tử, giao việc trấn trị ở Quảng Nam.
Cũng theo nhà văn - nhà nghiên cứu Lê Khôi, khi Nguyễn Nhạc đem quân ra đánh chiếm Hội An, Trương Công Hy đã dùng kế sách thuyết phục Nguyễn Nhạc nên qui thuận Đông cung Thế tử để thu phục nhân tâm. Nguyễn Nhạc thấy thư của Trương Công Hy lời lẽ có tình có lý, lại cũng muốn dùng Nguyễn Phúc Dương để giương cờ “Phù Nguyễn Diệt Trịnh”, bèn sai người đem lụa là, tặng phẩm đến làng Thanh Quýt để cảm tạ và mời Trương Công Hy ra gánh vác công việc. Trương Công Hy từ chối mọi tặng vật nhưng sau đó thuyết phục Nguyễn Nhạc gả con gái là Nguyễn Thị Thọ cho Đông cung Thế tử và rồi đưa Phúc Dương lên ngôi chúa để thu phục hào kiệt. Nhờ những kế sách đó, tháng 3 năm Bính Thân, 1776, nhà Tây Sơn đã liên tiếp lập được những chiến thắng vang dội trước quân Trịnh lẫn quân của chúa Nguyễn ở phía nam. Đây cũng là lúc ông Trương Công Hy nhận ra nội tình chia rẽ của chúa Nguyễn và chính nghĩa của Tây Sơn đang được nhân dân ủng hộ. Ông nhận lời hợp tác và sau đó được bổ làm Tri phủ Điện Bàn. Đến đời Quang Trung (1789 - 1792) ông lần lượt được phong Khâm sai Quảng Nam trấn. Đời Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toảng được phong Thượng thư Bộ Hình, tước Thùy Ân hầu. Năm 1798, khi về nghỉ hưu được truy tặng Binh bộ Thượng Thư.
Tài liệu chính sử thời Tây Sơn đã bị nhà Nguyễn đốt sạch. “Tại nhiều địa phương ngày nay đến một mảnh giấy, một mảnh bằng sắc thực sự của triều Tây Sơn cũng không còn” (Trần Văn Quý, Những tìm hiểu mới nhất về triều Tây Sơn qua tư liệu Quỳ Hợp - Tạp chí Khoa học Quân sự 2.1987), cho nên cuộc đời và sự nghiệp của Thượng thư Trương Công Hy vẫn chỉ là những mảnh ghép chưa hoàn chỉnh.
III- Thượng thư Trương Công Hy trong lòng dân
Tuy chính sử không ghi lại nhiều về triều đại Tây Sơn, nhiều tư liệu vào thời kỳ này đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu trong các gia phả của những nhân vật liên quan hoặc các câu chuyện kể.
Với trường hợp Thượng thư Trương Công Hy, văn tế nhân ngày húy kỵ của ông vẫn còn lưu lại trong hồ sơ gia tộc cùng những ghi chép khác sau đây cho thấy ông là vị quan có nhiều công trạng; đồng thời được nhân dân đương thời hết sức ngưỡng mộ nhờ đức thanh liêm:
Đoạn Tế văn sau đây, sưu tầm được trong tộc phả nhân ngày húy kỵ của ông từ hơn một trăm năm trước:
Hường Ân Thuận Hóa, Huệ trạch tài lương
Triều Thánh đế lịch đại tuyên dương
Chánh đương Thượng thư Hình bộ
Quyền sai Quảng Nam ngoại trấn
Khâm sai Đại thần
Phụng thủ chưởng nhất phương...
Cụ Tú Nguyễn Hữu Học ở Xóm Chay làng Thanh Quýt cách đây tròn thế kỷ cũng đã viết nhân ngày húy kỵ:
Nhớ người xưa, hiền từ phúc hậu
Cả cuộc đời trọn hiếu tận trung
Với cháu con rộng lượng bao dung
Với đất nước trọn đời chung thủy
Lộc lớn vua ban nhường cho dân chúng[1]
Cơ nghiệp người xây hiến cúng gia tiên[2]
Ôi tấm gương Cao tổ triết hiền
Đời thường nhắc, cháu con luôn ghi nhớ
Một nén hương dâng người thiên cổ
Nguyện trọng đời theo gương sáng người treo.
Cụ Trương Hữu Y (hay Trương Công Y) hậu duệ đời 12 của Thượng thư kể rằng từ nhỏ ông đã nghe truyền tụng: Khi phong trào Tây Sơn khởi nghĩa cần vương (Phù tôn Dương) được sự hưởng ứng tích cực của toàn dân đã có những câu:
Nghĩa kỳ dựng tại Tây Sơn
Tận trung báo quốc rửa hờn cho dân
(Ca dao thời ấy)
Là một trí thức vốn bất bình trước chế độ cát cứ, đất nước bị rẻ phân, lòng dân ly tán, Thượng thư Trương Công Hy từng nuôi dưỡng khát vọng:
Thùy phân thùy hợp mạc tri hà
Nam Bắc tòng lai nhị nhất gia
Dịch nghĩa:
Ai chia ra, ai hợp lại không biết tự bao giờ
Nam Bắc từ lâu vẫn một nhà
Ông Y cũng kể rằng: Lễ tang của Thượng thư Trương Công Hy thời đó kéo dài đến 1 tháng, dòng họ dựng rạp làm chay để dân chúng khắp nơi đến viếng. Làng lúc đó phải dựng lên một “Xích hậu” tức nhà khách ở đầu đường vào nhà quan Thượng cho dân chúng trọ lại khi đến viếng. Con đường từ Xích Hậu đến nhà thờ tộc Trương hiện nay vẫn được dân chúng gọi là Ngõ Quan Thượng.
Bia đá tại lăng mộ ông được các con khắc:
Trên lăng mộ xây dựng bằng đá vôi, ngoài hai linh vật là hai con nghê hầu chầu nay vẫn còn, còn có hai đôi câu đối ghi nhớ công đức to lớn của ông còn giữ lại sau hơn 2 thế kỷ:
Hạc phi Bắc lĩnh cơ sở tráng
Long tụ Đông hoàn dẫn nguyên trường
Và:
Chánh tích vạn niên thùy vũ trụ
Nhân ân thiên tải dĩ tôn chi.
Sau hai thế kỷ, lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy và uy linh của ông lại một lần nữa đóng góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lịch sử Đảng bộ xã Điện Thắng đã ghi lại: Trên cơ sở giá trị lịch sử to lớn của khu lăng mộ, Đảng bộ xã lúc đó (1969) đã bí mật cử người vào Sài Gòn để gặp hậu duệ 5 đời (đời 12 tộc Trương Thanh Quýt) của Thượng thư là ông Trương Công Cừu, lúc này đã thôi chức Bộ trưởng Giáo dục nhưng là một Nghị sĩ có uy tín của Quốc hội Sài Gòn. Ông Cừu đã tác động đến giới quân sự lúc đó ngưng tiến hành công trình xây dựng hàng rào điện tử phòng thủ Đà Nẵng bằng cách cày ủi ngang qua lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy tại làng Thanh Quýt. Việc bảo vệ khu lăng mộ này đồng thời cũng là bảo vệ phong trào cách mạng đang lên ở vành đai Đà Nẵng rất quan trọng lúc đó. (Theo bản thảo đánh máy Lịch sử Đảng bộ xã Điện Thắng).
IV- Một Di bút còn lại từ thời Tây Sơn
Trong nhiều tài liệu của gia tộc họ Trương Công tại làng Thanh Quýt, chúng tôi vừa tìm thấy có nhiều tài liệu quý giá viết bằng chữ Hán cách đây hơn 200 năm như các bản khai đất đai của quan Thượng thư Trương Công Hy do chính tay ông viết trong nhiều thời kỳ khác nhau, khi là Tri phủ Điện Bàn, khi là Trấn thủ Quảng Nam trấn, khi là Khâm sai Đại thần Hình bộ Thượng thư dưới các triều đại nhà Tây Sơn. Chữ ông viết trên giấy dó với nét cứng cáp tự tin, nét chữ đá lên mạnh mẽ khác với nét chữ của 5 người con trai của ông (cũng khai đất đai vào thời vua Gia Long sau đó).
Sau đây là các bản phiên âm tờ khai đất đai vào năm Thái Đức bát niên, ngày 24 tháng 8 với chữ ký, gồm 6 trang, có ấn và các dấu kiềm rãi rác trên văn bản.
1- CÁC BẢN KHAI ĐẤT ĐAI KHI LÀM TRI PHỦ ĐIỆN BÀN
-Tờ 1:
“Điện Bàn phủ, Diên Khánh huyện, phụ điền thổ Thanh Quýt xã, Tri phủ Thùy Ân tử Trương Công Hy.
Thân khai
Nhất thừa khai do tư hữu từ truyền kế điện nhị phủ các huyện thuộc tổng xã thôn phỏng thần dân đẳng cứ khai công tư điền thổ thực trạng nhất nhị tam đẳng cập lưu hoang, phế canh tiên chiếm đẳng hạng đông tây tứ cận, thảng hữu điền đa thuế thiểu hứa tiên trưng giả đắc chi tư thừa khai bỉ phân thực canh tư thổ tổ phụ lưu lai tại bản xã địa bạ, khai thực vu thứ Thanh Loa xứ.
Tư thổ vô thuế dĩ hạ:
Do thử thổ tùng điền vô thuế.
- Nhất sở thổ nhất khoảnh tam sào điền tổ phụ hương hỏa lưu lai bỉ canh
Đông cận lão Luận thổ viên
Tây cận bỉ tư thổ viên.
Nam cận lão Chánh tư điền
Bắc cận lão Nhiêu Khánh tư điền
Do thử thổ tùng điền vô thuế
-Nhất sở thổ nhất khoảnh nhị sào,
Trương Công Túy[4] nhất sào, Trương Công Toại nhất sào, do tổ phụ lưu lai bỉ canh thổ viên do hữu khế trác mại thất liểu.
Đông cận hương hỏa thổ tịnh Nhiêu Khánh tư thổ, Tây cận Giáp Hưu tư thổ, Nam cận bổn tộc thổ viên, Bắc cận mẹ Vú tư điền thực canh
Do thử thổ tùng điền vô thuế
-Nhất sở thổ nhất khoảnh nhị sào Trương Công Hộ dụng hộ do tổ phụ lưu lai hứa bỉ canh, do hữu khế trác mại thất liểu.
Đông cận lão Toản, lão Thạnh tư điền thực canh.
Tây cận lão Toản, lão Ất thập tứ bài tư thổ
Nam cận lão Hưng tư điền phế canh
Bắc cận lão Toản tư thổ, do thử thổ tùng điền vô thuế
-Nhất sở thổ nhất khoảnh nhất sào do tổ phụ lưu lai hứa canh Trương Công Cơ do hữu khế trác thất liểu,
Đông cận Nhiêu Khánh tư thổ
Tây cận lão Vĩnh tư thổ
Nam cận Nhiêu Khánh tư thổ
-Nhất sở thổ nhất khoảnh nhất sào do bỉ tạo trí hữu khế, do thử thổ tùng điền vô thuế (Trương) Công Hộ đối kỵ công (mất hai chữ)
Đông cận lão Đôn tư thổ
Tây cận lão Hưng tư thổ
Nam cận Cha Tán tư thổ
Bắc cận lão Chánh tư thổ
Lệ Thủy xứ:
-Nhất thổ tư thổ khư (bỏ trống) nhất khoảnh tứ sào do hoang phế tiên chiếm.
Đông cận tư điền, Tây cận tư điền, Nam, Bắc cận tư điền.
Dĩ thượng hữu tự chỉ nhị trương tịnh dĩ khai báo tường tận quả như đương nội tịnh thực hựu biên bỉ canh tư thổ đa gian khai thiểu cập ẩn phế ngoại lậu tự nhất xích dĩ thượng cam thọ gia tài nhập quan, tái thọ tử tội tư biện.
PHÓ CHẤP BẰNG
PHỤ CHÁNH
Thái Đức bát niên, bát ngoạt nhị thập tứ nhật
Thân đơn khai Tri phủ Trương Công Hy ký
Tờ 2:
Điện Bàn phủ, Diên Khánh huyện, Đông An xã, bổn thổ Tri phủ Thùy Ân tử Trương Công Hy.
Thân kê:
-Nhất thừa khai do thần hữu tạo mãi tư thổ viên trạch tại địa phận Đông An xã, liệt kê vu thứ:
Bến Giá xứ:
-Nhất sở tư thổ trạch nhất khoảnh nhất sào do tiền Trùm Hòa bổn tộc mại đoạn hứa thần hữu khế bị thất liễu
Đông cận lộ tịnh Khách Hựu thổ trạch
Tây cận tiền Thầy Chiểu thổ trạch
Nam cận mụ Thủ Thanh thổ trạch
Dĩ thượng hữu tự chỉ nhất trương tịnh khai báo tường tận qua như đơn nội, nhược thử thổ đa gian khai thuộc thiểu hậu chỉnh đạc lai tự Nhất xích dĩ thượng cam thọ gia tài một nhập quan tái thọ tử hình tư biên.
PHÓ CHẤP BẰNG
PHỤ CHÁNH
Thái Đức Bát niên, bát ngoạt nhị thập cửu nhựt
Thân khai Tri phủ Thùy ân Tử Trương Công Hy ký.
BẢN KHAI ĐẤT KHI LÀM KHÂM SAI QUẢNG NAM TRẤN VÀ HÌNH BỘ THƯỢNG THƯ
Bản viết tay của Thượng thư Trương Công Hy năm Cảnh Thịnh ngũ niên (1798), trước khi mất hai năm (cụ mất năm 1800).
Điện Bàn phủ, Diên Phước huyện, Thanh Quýt Trung tổng, Thanh Quýt xã, Khâm sai Quảng Nam trấn, Hình bộ Thượng thư Thùy Ân hầu
Kê:
Tỵ văn thân giả nải thân chi, chi tử giả ly, ngô chi lý lạc ngã quan chi ngũ..., giả vô phụ quách chi điền.
Tuy ngô thọ thiên niên, khởi tẩy đông phương chi tủy, sở hữu tiền phụ mẫu di lai điền thổ kỷ mẫu tắc phụng định tiên nhơn, hương hỏa nhất tắt quân phân. Chúng tử dĩ phân cập (mất chữ)tuyệt tự bất thất, cung tang kính tử. Cụ hữu (mất chữ) xứ sở tịnh liệt du thứ. Thanh ly xứ tư điền:
....
(Phần giữa ghi rõ diện tích đất vườn, đất ruộng cho 5 người con trai, đất để lại làm nhà thờ tộc phái...)
Cộng tư thổ các sở: Nhất mẫu, tam sào, cửu xích
Cảnh Thịnh ngũ niên
(mất ba chữ) thành tự ký.
III-NHẬN XÉT
Căn cứ vào các tài liệu do chính Thượng thư Trương Công Hy viết nêu trên, ta có thể thấy:
(Hai bản dịch này do cụ Trương Công Y (đời thứ 12) để lại cho cụ Trương Công Cầu và bản sau do cụ Nguyễn Hữu Cơ người làng Thanh Quýt dịch ngày 6.6.2010.
Như tin đã đưa, ngày 15/7/2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội đã phối hợp với các Viện Nghiên cứu và Các cơ quan quản lý về di sản văn hóa ở trung ương và một số tỉnh, thành phố trong toàn quốc tổ chức Hội thảo khoa học về “Tế tửu Quốc Tử Giám Trương Công Giai và truyền thống khoa bảng họ Trương Việt Nam” tại Khu di tích Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội. Chúng tôi xin đăng toàn văn báo cáo đề dẫn tại Hội thảo do THs Trương Minh Tiến, Phó Giám đốc Sở VHTTDL Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội đồng Họ Trương Việt Nam trình bày.
Như tin đã đưa, ngày 15/7/2014, Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu- Quốc Tử Giám đã tổ chức hội thảo khoa học về Tế tửu Quốc Tử Giám Trương Công Giai và truyền thông khoa bảng họ Trương Việt Nam tại khu di tích Văn Miếu –Quốc Tử Giám. Họ Trương Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn tham luận của PGS.TS Trương Quốc Bình, Ủy viên Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng họ Trương Việt Nam tại buổi hội thảo này.
Trong nhiều năm qua, kể từ sau ngày Nghĩa trang Trường Sơn, Nghĩa trang quốc gia đường 9 và Thành cổ Quảng Trị được xây dựng để tưởng niệm những người con ưu tú của dân tộc Việt nam đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc, cứ vào dịp tháng 7, rất nhiều cá nhân và tập thể từ mọi miền đất nước lại hướng về Quảng Trị-mảnh đất anh hùng (27/7 là Ngày Thương binh, liệt sĩ). Nhưng khác với mọi năm, tháng 7 năm nay (2014), trong vô số những đoàn người đi tri ân ấy, có Đoàn của những người con họ Trương Việt Nam.
Trong những ngày tháng 7 lịch sử, tại mảnh đất lửa Quảng Trị giàu lòng hiếu khách, anh dũng và kiên cường, bà con các tộc họ Trương của tỉnh Quảng Trị đã long trọng tổ chức Đại hội Đại biểu họ rương tỉnh Quảng Trị lần thứ nhất tại nhà Văn hóa Trung tâm của Thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
Sáng 22-7, TX Quảng Yên đã long trọng tổ chức Lễ đón Bằng Di tích lịch sử Quốc gia Đền Quan Đại và Kỷ niệm 150 năm ngày mất của 2 vị đại thần nhà Nguyễn là Trương Quốc Dụng, Văn Đức Giai.