Trong thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của vị Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã ca tụng, lưu truyền về sự kiện vĩ đại ở thế kỷ XV: “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật - Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”. Ngay sau chiến thắng lừng lẫy này, Bình Định Vương Lê Lợi phong cho Trương Công Hán - vị tù trưởng dân tộc Thái ở bản Khe Trằng (Mường Phục,Thọ Sơn, Anh Sơn, Nghệ An) là “Khả lãm Quốc Công”, giao cho ông quản lý một vùng đất rộng lớn gọi là “Tam bách đỉnh sơn” do đã có công đoàn kết, tập hợp thêm quân sĩ là người Thái, cung cấp lương thảo và ngựa chiến, voi chiến giúp nghĩa quân Lam Sơn hạ thành Trà Lân.
Năm 1423, tại căn cứ vùng núi rừng miền tây Thanh Hóa, vị anh hùng dân tộc Lê Lợi đã hỏi Bộ chỉ huy- tham mưu nghĩa quân Lam Sơn: “Bây giờ ta đi đâu để lo việc nước?”. Nguyễn Chích, vốn là một thủ lĩnh của một phong trào kháng chiến chống giặc Minh ở Thanh Hóa mới theo về với Lê Lợi, hiến kế: “Nay ta hãy đánh lấy thành Trà Lân, giữ cho được Nghệ An để làm thế ỷ dốc (đứng chân), rồi dựa vào nhân tài, vật lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô(tức Thăng Long) thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”.
Nhất trí với mưu lược của Nguyễn Chích, Lê Lợi kéo quân theo đường “thượng đạo” vào Nghệ An và mục tiêu chính là hạ thành Trà Lân.
Châu Trà Lân là một huyện miền núi của phủ Nghệ An, tương ứng với đất huyện Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương của tỉnh Nghệ An ngày nay. Trung tâm của châu Trà Lân nằm ở vùng phía trên ngã ba sông Con và sông Lam. Đây là đầu mối của những con đường giao thông thủy, bộ quan trọng nhất của miền núi Nghệ An. Có đường “thượng đạo” từ Bắc vào Nam qua lưu vực sông Con và hai đường thủy bộ từ Nghệ An sang nước Lào theo lưu vực sông Lam.
Thành Trà Lân thuộc xã Bồng Khê, huyện Con Cuông, nó vừa là thủ phủ, vừa là một căn cứ quân sự trọng yếu ở vùng Tây Bắc Nghệ An. Thành được xây dựng theo thế núi “đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”, mặt thành nhìn ra sông Lam, chu vi chừng 2km, xung quanh có thành cao hào sâu yểm trợ. Hào rộng khoảng 1 - 1,2 m, khoảng cách từ hào lên núi từ 3,5 đến 10 m. Ngoài cùng là một lũy tre gai và cả nhiều ngọn núi của động Đào Nguyên hiểm trở bao bọc bảo vệ thành thêm vững chắc.
Nghe tin nghĩa quân Lam Sơn tiến vào đánh Nghệ An, Tổng binh quân Minh là Trần Trí cùng Phương Chính, Thái Phúc, Lý An liền điều quân từ thành Tây Đô (Thanh Hóa) đuổi theo phía sau. Tướng giặc Minh ở Nghệ An là Sư Hựu cùng Tri phủ Cầm Bành ở Trà Lân và Tri phủ Cầm Lạn ở Quỳ Châu đem quân chặn phía trước, hòng tạo thế “gọng kìm” để tiêu diệt nghĩa quân Lam Sơn đang trên đường hành binh.
Tương kế tựu kế, nghĩa quân bố trí một trận địa mai phục ở Bồ Đằng (Quỳ Châu) khiến cho cả hai cánh quân của Trần Trí, Sư Hựu bị đại bại không dám đuổi theo nghĩa quân nữa.
Với kế sách: vừa vây hãm thành, vừa dụ địch ra hàng, sau hơn hai tháng (từ tháng 10/ 1423 đến tháng 12/1424), 1.000 quân do Cầm Bành chỉ huy đã rơi vào tình trạng đói khát, bệnh tật nặng nề lại không được cứu viện nên đã đầu hàng.
Hạ thành Trà Lân xong, nghĩa quân chiếm nốt những vị trí quan trọng có thể khống chế cả vùng núi rừng Nghệ An, tạo bàn đạp tiến xuống đồng bằng góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trong thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của vị Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã ca tụng lưu truyền về sự kiện vĩ đại này :
"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay".
Người có công lớn, đoàn kết, tập hợp thêm quân sĩ người Thái vào hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn, cung cấp lương thảo và ngựa chiến, voi chiến giúp Lê Lợi đánh thắng thành Trà Lân là Trương Công Hán. Ông là vị tù trưởng dân tộc Thái ở bản khe Trằng (Mường Phục, xã Thọ Sơn, huyện Anh Sơn, Nghệ An).
* Nhớ ơn, dựng lại đền thờ
Trải qua thiên tai, chiến tranh tàn phá, năm 1967 đền có dấu hiệu xuống cấp, cụ Trương Công Đường - hậu duệ của “Khả Lãm Quốc Công” Trương Công Hán đã chuyển các loại đồ thờ tự tại đền thờ về cất giữ ở nhà mình.
Năm 1994, đền xuống cấp nghiêm trọng và buộc phải dỡ bỏ, còn lại dấu tích của bốn cột trụ trên diện tích mặt nền rộng gần 20m2 nằm trên đỉnh một ngọn đồi. Một số đồ thờ tự và tế khí của đền gồm: 01 long ngai, 2 cuốn gia phả (chữ Hán), 2 sắc phong, 1 bản đồ viết bằng chữ Hán, 2 chiếc trống, 1 bảo kiếm, 1 khánh đồng và một số đồ tế khí khác được lưu giữ tại nhà ông Trương Công Xuân (cháu nội của cụ Trương Công Đường) ở thôn 1, xã Thọ Sơn .
Đền thờ Trương Công Hán đang được xây dựng
Cuối năm 2012, thể theo tâm nguyện của người dân, cấp ủy và chính quyền xã Thọ Sơn đã nỗ lực phối hợp với các ban ngành chức năng và đồng bào gần xa để phục dựng đền thờ Khả Lãm Quốc Công Trương Công Hán tại xóm 3, xã Thọ Sơn
Nơi đây trở thành “điểm hẹn” du lịch văn hóa tâm linh, góp phần giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn” “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” cho thế hệ đương đại và mai sau.