Cây di sản làng Dương Xuân Hạ, Thủy Xuân, thành phố Huế

23:53 - 25/05/2017 Tin tổng hợp Admin 1870

Biểu trưng dòng họ

Ngày 5-11-2010, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) tổ chức lễ vinh danh và gắn bia Cây di sản cho cây thị ở trước sân nhà thờ phái Thân Văn làng Dương Xuân Hạ, phường Thủy Xuân. Đây là cổ thụ đầu tiên ở Huế, cổ thụ thứ 10 ở Việt Nam, được gắn bia cây di sản - trước đó là 9 cây muỗm 700 tuổi ở Đền Voi Phục.

Cây thị có xuất xứ từ làng Nguyệt Biều, do Ngài Thân Văn Thẩm (1671-1758), Thủy Tổ phái Thân Văn làng Dương Xuân Hạ đem về trồng vào năm 1698 để làm mốc địa giới, đồng thời đánh dấu mốc thời gian phái họ Thân của ngài về định cư ở đây. Cần phải diễn giải thêm: Cây di sản được VACNE xác định là cây gỗ hoặc cây thân gỗ, có một trong những giá trị đặc biệt về thẩm mỹ, cảnh quan, môi trường, văn hoá, lịch sử, khoa học… Theo đó, nếu là cây tự nhiên phải có tuổi thọ 200 năm trở lên; cao trên 40m, chu vi trên 6m đối với cây gỗ đơn thân; cao trên 25m, chu vi trên 15m đối với các cây đa, cây si; có hình dáng đặc sắc; đặc biệt ưu tiên các loài đặc hữu, quý hiếm, có giá trị văn hoá, lịch sử.

Nếu là cây trồng phải trên 100 năm tuổi; cao trên 30m, chu vi trên 3,5m đối với cây gỗ đơn thân; cao trên 20m, chu vi trên 10m, đối với cây đa, si ; đặc biệt ưu tiên các loài có giá trị cảnh quan, văn hóa, lịch sử (chu vi cây đơn thân đo cách mặt đất 1,3m, chu vi cây có bạnh vè đo trên bạnh vè 20cm, chu vi các loài đa, si đo cả chu vi các rễ phụ).

Các loại cây khác không đạt các tiêu chí kể trên nhưng có giá trị đặc biệt về khoa học, hoặc lịch sử, hoặc văn hoá, mỹ quan; các loại cây cảnh độc đáo cũng được vinh danh cây di sản.

Phát biểu tại lễ vinh danh và gắn bia Cây di sản cho cây thị, Nhà giáo ưu tú Thân Trọng Ninh, cố vấn Hội đồng Thân tộc Việt Nam, cho biết: Họ Thân sẽ làm hồ sơ đề nghị VACNE công nhận thêm một số cây cổ thụ ở trong khuôn viên các từ đường và lăng mộ của các Ngài tiền bối. Đó là cây măng cụt trên 100 tuổi ở khuôn viên từ đường họ Thân Trọng làng Nguyệt Biều.

Cây thị trên 100 tuổi và cây sanh trên 300 tuổi ở từ đường họ Thân làng Cư Chánh. Hai cây bộp ở ngôi mộ Ngài Thủy tổ họ Thân làng An Lỗ, huyện Phong Điền.

Tuy mới khoảng 60 năm tuổi nhưng hai cây bộp đạt tiêu chuẩn về thẩm mỹ và có giá trị văn hóa tâm linh, cảnh quan, môi trường. Hai cây này mọc tự nhiên, cao và thắng tắp, đứng song song ngay trước mộ Ngài Thân Đại Lang. Con cháu họ Thân cho đó là một sự hiển linh và gọi là hai cây “trời trồng”, một cây “trống” và một cây “mái”.

Chuyện bao báp Phi châu bên sông Hương

Với tư cách là ủy viên BCH Hội Thực vật Việt Nam, ông Thân Trọng Ninh hứa tại buổi lễ nói trên sẽ làm hồ sơ đề nghị công nhận hai cây bao báp mà ông phát hiện từ năm 1975 và có công bảo vệ, giới thiệu trên báo chí để nhiều người biết.
Cây bao báp ở đường Mai Thúc Loan, gần ngã tư Đinh Tiên Hoàng, đã trở thành thương hiệu của nhà hàng mà nó đứng giữa sân. Bao báp trước đây chỉ có ở châu Phi và châu Úc, được trồng ở Huế vào thập kỷ 1940, do kỹ sư lâm nghiệp Nguyễn Hữu Đính đem hạt giống từ Pháp về gieo trồng.
Tuổi thọ bao báp đến vài ngàn năm, đường kính thân cổ thụ vài chục người ôm không xuể, được mệnh danh là “người khổng lồ châu Phi”. Bao báp châu Phi mọc tự nhiên từ hạt. Mùa khô, cây con là thức ăn của động vật, kể cả bộ rễ. Hoa bao báp cuống dài 20 – 30 cm, cánh hoa màu trắng, nghiền thành bột chế biến thêm thành nước uống rất bổ.
Quả nhiều hạt, bên trong chứa một loại bột có vị hơi chua, được dùng để nấu món ka lăc, vị ngọt như sữa chua, rất bổ. Quả bao báp còn được người dân châu Phi dùng chữa bệnh đường máu và đường ruột. Vỏ cây dày và dai, dùng bện dây thừng. Lá nghiền ra được một thứ bột mịn dùng để nấu món cous-cous, món ăn truyền thống của người Phi.
Hồi đó, do nhiều người ngộ nhận đây là cây bao báp duy nhất ở Đông Dương nên nó đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và du khách. Trong khi đó, ngay ở Huế còn có những cây bao báp khác. Năm 2002, một học trò cũ cho ông Ninh biết ở đường Trần Phú có cây bao báp tuổi đời còn lớn hơn cây bao báp đường Mai Thúc Loan.
Cổ thụ này trước đây ở trong khuôn viên nghĩa địa của giáo xứ Phủ Cam, hiện nay nằm trong khuôn viên trường Mầm non phường Phước Vĩnh. Những người cao tuổi quanh đó cho biết, cây này gần 100 tuổi, người trồng là một vị linh mục người Pháp.
Ở châu Phi, bao báp là loài cây được coi là linh thiêng. Người Phi quan niệm đó là nơi trú ngụ của những linh hồn lang thang, phiêu bạt. Khi chết, bao báp mục ruỗng từ bên trong tạo thành những vòm hang là chỗ trú mưa, tránh nắng lý tưởng của người và muông thú.
Các bộ lạc người Phi cũng thường chọn những bao báp cổ thụ làm nơi cư ngụ. Vì thế ông Ninh lập luận rằng hai cây bao báp này có thể là do chính người châu Phi mang qua Việt Nam trồng theo quan niệm tín ngưỡng. Vì khu nghĩa địa ngày trước có chôn cất nhiều lính lê dương gốc Phi.

Ông Thân Trọng Ninh kể, năm 1975, khi tìm được cây bao báp thì nó nằm trong khuôn viên một cơ quan trực thuộc Sở Lâm nghiệp. Có người nói với ông rằng sẽ chặt bỏ cây này vì nó chiếm nhiều diện tích. Ông Ninh tìm gặp ông Bùi San, Bí thư Tỉnh ủy, diễn giải giá trị của bao báp và thuyết phục, nhờ can thiệp để bảo vệ loài cây quý hiếm này. Thỉnh thoảng ông lại dẫn bạn bè qua thăm cây bao báp và giảng giải cho những người xung quanh cùng biết giá trị của nó. Ông cảm thấy cây cũng có linh hồn và gắn bó với nó đến kỳ lạ.
Nhưng hiện Huế không chỉ có hai cây bao báp trên. Ông Phan Đình Ngôn, Giám đốc Trung tâm Công viên cây xanh, cho tôi biết có cây bao báp thứ ba ở gần cống Lương Y, đường Xuân 68, phường Thuận Lộc. Ông Lê Văn Lân, nguyên giáo viên trường THPT Nguyễn Huệ, cho biết đây là cây con của cây bao báp đường Mai Thúc Loan.
Năm 1980 ông Lân lấy một quả về ươm thử, có ba hạt nẩy mầm nhưng chỉ lựa được một cây trồng ở lề đường trước cửa nhà mình. Trận bão số 8 năm 1985, cây bị gãy đổ. Người ta cưa thân sát gốc để giải phóng mặt bằng. Ít lâu sau, từ gốc cây đã đổ nghiêng khoảng 30 độ nẩy ra nhiều nhánh và phát triển rất nhanh.
Từ năm 1978, ông Thân Trọng Ninh lấy hạt cây bao báp ở đường Mai Thúc Loan ươm cấy thử nghiệm. Hạt nảy mầm. Ban đầu xuất hiện lá đơn, về sau có lá kép. Thấy bao báp không khó trồng như nhiều người nghĩ, ông Ninh đã gửi cây con tặng một số đồng nghiệp ngành thực vật học ở một số tỉnh, thành vốn là bạn tâm giao.
Một số chuyên gia thực vật học từ châu Âu đến Huế công tác cũng được ông tặng mẫu hoa và quả bao báp làm kỷ niệm. Trung tâm Công viên cây xanh thành phố Huế cũng đã nhân giống bao báp thành công và cung cấp cây con cho khá nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước khi có nhu cầu.

Vua trồng Thông và Ngô đồng

Cây xanh đô thị là tài sản quý hiếm, không chỉ làm đẹp cảnh quan thiên nhiên, môi trường mà còn là nét đẹp văn hóa. Huế từng có một rừng thông giàu ý nghĩa nhân văn và linh thiêng trong đời sống tinh thần của người dân, là niềm tự hào của nhiều gia đình, dòng họ. Đó là rừng thông ở đàn Nam Giao, được trồng theo ý chỉ của vua Minh Mạng và trở thành một tập quán tốt đẹp.
Ngoài những cây do nhà vua đích thân trồng, các vị Hoàng thân, các quan văn võ trong triều, quan Phủ doãn Thừa Thiên đều trồng mỗi người một cây. Mỗi cây được buộc một cái thẻ bằng đồng, hoặc bằng đá, khắc tên và chức vụ của người trồng, thời điểm trồng. Kể cả cây do nhà vua đích thân trồng cũng được đeo thẻ. Nếu không may cây bị chết thì phải trồng lại cây khác thay thế.
Cây bồ đề nơi Đức Phật ngồi thiền định và thành đạo đã được nhân giống khắp nơi trên thế giới. Trong đó ở Huế ít nhất có ba cây. Một cây ở phía sau mái tam quan chùa Từ Đàm và hai cây ở Cung An Định, là do bà Karpeies, người Pháp, thỉnh từ Ấn Độ qua tặng, được trồng vào giữa thập niên 1930.
Nếu không có văn hoá hàn lâm và tâm hồn thi sĩ của các vị vua tiền triều thì trong Đại Nội Huế và trong lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức không có những cây ngô đồng như ta vẫn thấy. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, giống ngô đồng được vua Minh Mạng cho đưa về từ Quảng Đông, trồng ở hai bên góc điện Cần Chánh. Vua còn cho người đem lá lên các vùng núi làm mẫu để tìm về trồng ở các góc điện (Việt Nam cũng có giống ngô đồng, không khác biệt nhiều với giống mang về từ Quảng Đông).
Các vua nhà Nguyễn đem ngô đồng từ Trung Quốc về Huế là đem huyền sử và thi ca về làm giàu, làm phong phú thêm cho văn hoá Huế. Thơ đề trên bi đình lăng vua Thiệu Trị có tiếng lá ngô đồng rụng: Ly biên tam kính cúc/Dạ bán nhất thanh ngô

Cần nói thêm, rất nhiều người nhầm lẫn cây ngô đồng với cây vông đồng mọc khắp trong dân gian. Ngô đồng thân nhỏ nhưng khá cao, lá to, hoa màu tím như hoa cà. Nhiều người chỉ biết ngô đồng trong thi ca mà chưa biết đến nó trong đời thường.
Ở Huế ngày xưa ngô đồng chỉ trồng ở trong cung đình, vương phủ, vì hoa ngô đồng quá đẹp và quá thanh cao, gắn với nhiều điển tích, thi ca. Vua Minh Mạng “sai biền binh đem lá lên các núi để tìm khắp” chứng tỏ giống ngô đồng không đến nỗi quá hiếm. Nhưng dân gian không trồng ngô đồng vì nó không thuộc loại cây cho gỗ quý, không có giá trị kinh tế.
Rồi không biết từ bao giờ từ trong cung ngô đồng đã ra ngoài phố, xuất hiện ở công viên Thương Bạc, công viên Tứ Tượng, ở Phu Văn Lâu... Cũng chẳng biết tự bao giờ, vì phải thích nghi với thổ nhưỡng, khí hậu, cây ngô đồng từ Trung Quốc về Huế đã thay đổi qui luật tự nhiên: cuối đông rụng lá, giữa mùa xuân nở hoa rực rỡ. Không như ở bên Tàu: Ngô đồng nhất diệp lạc/Thiên hạ cộng tri thu.
Để giữ màu thời gian, để màu tím đài các của hoa ngô đồng phủ lên những công viên, góc phố, nhiều năm nay Trung tâm Công viên cây xanh Huế đã nhân giống và tìm kiếm những không gian mới cho ngô đồng sinh trưởng, toả hương sắc mỗi dịp xuân về.
Trong hơn mười năm nay, bên cạnh những nỗ lực để đưa nhiều giống cây quý ở các vùng miền khác về làm đẹp cho đô thị di sản, Trung tâm Công viên cây xanh Huế rất có ý thức trong việc quy hoạch lại cây xanh đường phố và phục hồi, nhân bản một số loài cây đặc trưng của Huế đã bị mai một.
Ở công viên Thương Bạc có 13 cây nhạc ngựa trên 100 năm tuổi, đường kính gốc từ 0,8 - 1,2m; 10 cây thốt nốt trên 70 năm, 2 cây bồ đề hơn 70 năm, đường kính hơn 2m. Công viên Kim Đồng có 22 cây đoát hơn 60 năm. Công viên Tứ Tượng có 11 cây long não và một cây ngô đồng hơn 60 năm. Đường Lê Duẩn có 2 cây xà cừ hơn 80 năm tuổi, đường kính gốc 1,2 - 1,5m. Đường 23-8 có 17 cây xà cừ hơn 60 năm.
Đường Đinh Tiên Hoàng và đường Đinh Công Tráng mỗi đường có 16 cây nhãn hơn 70 năm. Đường Đoàn Thị Điểm có 18 cây nhội hơn 70 năm. Đường Hoàng Hoa Thám có 2 cây gội tía hơn 70 năm tuổi. Đường Nguyễn Trường Tộ chỉ khoảng 1km nhưng có đến 13 cây long não, 5 cây xà cừ hơn 70 năm, 5 cây nhạc ngựa hơn 60 năm. v.v…
Đó là niềm tự hào về di sản cây xanh của Huế, đồng thời cũng là một gánh nặng bảo vệ, cưu mang cây xanh của cơ quan chủ quản khi mùa mưa bão về, khi đối mặt với vấn nạn cơi nới nhà, lấn chiến vỉa hè để làm dịch vụ.
Cũng như người cao tuổi, cổ thụ có thể kể cho ta nghe những điều lý thú, bổ ích. Cổ thụ trường tồn với thời gian vì nó đã thực sự thân thiện, hữu ích với con người. Cổ thụ ở mỗi công viên, đường phố cần được quý trọng, gìn giữ, nhân bản, vì nó là di sản của đô thị.
Nhiều đường phố ở Huế sẽ đẹp hơn, thơ mộng hơn, quyến rũ hơn với sự hiện hữu, hoặc sự xuất hiện trở lại của những hàng cây vốn đã đi vào thi ca nhạc hoạ: Đường Phượng Bay mu không lối vào/ Hàng cây lá xanh gần với nhau và Văn Thánh trồng Thông, Võ Thánh trồng Bàng/Ngó lên Xẵ Tắc hai hàng Mù U...
 

Theo Tiền Phong online 2010

Những tin cũ hơn

Nghe kể chuyện làng

Nghe kể chuyện làng

— 25 Tháng Năm 2017

Người ta mang tên làng mình đi mọi nơi bằng những kỷ niệm hồi còn con nít. Khi lớn lên, trưởng thành, nhiều lúc nhớ quê, hồi tưởng hoặc nghê kể lại những chuyện cũ, chợt hiểu ra nhiều điều và lại thấy yêu quê hương mình hơn… Tôi cũng vậy, thời nhỏ ở làng, bên cạnh những kỷ niệm ấu thơ còn có những tích cũ, người cũ với những câu chuyện từ thời mới khai cư lập nghiệp… được những người già kể lại. Giờ về lại quê, không ngờ mình đã bằng tuổi những người kể tiếp những câu chuyện ấy cho lớp trẻ.

Mấy suy nghĩ về tên làng

Mấy suy nghĩ về tên làng

— 25 Tháng Năm 2017

Nhà văn, nhà phê bình văn học Hoài Thanh viết một câu khá sâu sắc, đại ý: Trong mỗi chúng ta đều có một anh nhà quê! Tôi lại nghĩ: Tám mươi phần trăm dân số làm nông nghiệp, mà không phải là nhà quê thì ở đâu ra! Nói đến nhà quê lại liên tưởng đến những biểu hiện cố hữu của văn hoá nông dân: óc địa phương cục bộ, suy nghĩ manh mún, ích kỷ, cố chấp... Nhưng nhà quê đâu chỉ có vậy! Ở đó còn là một kho báu văn hoá dân gian tồn tại và phát triển từ đời này qua đời khác như các lễ hội truyền thống, đồng dao, ca dao, chuyện cổ tích... Nói đến nhà quê còn để nhớ đến những tên làng, tên xã, từ đó ta đã ra đi và quay về cùng với bao nỗi niềm, bao kỷ niệm không mờ phai.

Thờ cúng Ngài Tiến sỹ Trương Hanh ở Làng Mạng Tân, Gia Lương, Gia Lộc, Hải Dương

Thờ cúng Ngài Tiến sỹ Trương Hanh ở Làng Mạng Tân, Gia Lương, Gia Lộc, Hải Dương

— 25 Tháng Năm 2017

Với làng Mạnh Tân (nay là 3 thôn Cộng hòa, Đồng Tâm, Thành Lập thuộc xã Gia Lương, Huyện Gia Lộc, Tỉnh Hải Dương), từ xưa đã duy trì việc thờ Phật ở chùa, thờ thành Thành Hoàng làng ở Đình, Miếu, thờ ngài Trương Hanh ở Miếu Quan Trạng. Việc thờ cúng này được duy trì liên tục và mãi mãi tức là “thiên thu hương hỏa”

Đồng tộc Trương và những suy nghĩ về việc kết nối đồng tộc

Đồng tộc Trương và những suy nghĩ về việc kết nối đồng tộc

— 25 Tháng Năm 2017

Họ Trương Việt nam có lẽ là một cum từ tương đối xa lạ với rất nhiều người, Tôi xin được mạn phép lạm bàn đôi chút về ý nghĩa của cụm từ này như là sự bày tỏ của một người con cháu mang trong mình dòng máu và tên Họ Trương.

Ông Trương Tấn Sang: Phát huy tối đa nguồn lực xây dựng nông thôn mới

Ông Trương Tấn Sang: Phát huy tối đa nguồn lực xây dựng nông thôn mới

— 25 Tháng Năm 2017

Phát biểu tại buổi toạ đàm về đời sống văn hoá nông thôn mới, Ông Trương Tấn Sang, Uỷ Viên Bộ Chính Trị, Thường trực Ban Bí thư cho rằng, cần phải dồn nhiều sức, phát huy tối đa các nguồn lực để xây dựng thành công nông thôn mới.