Chùa xuân trên Đất Bắc

23:51 - 25/05/2017 Tin tổng hợp Admin 1278


Chùa Hà – cầu duyên

Nếu như những ngôi chùa khác tập trung nhiều tầng lớp trung niên, các cụ ông cụ bà, đến để giải hạn, để lễ bái, thì chùa Hà được đông đảo học sinh, sinh viên biết đến với một cái tên khác – Chùa Tình yêu. Họ đến đây để cầu duyên.
Đây là ngôi chùa nằm trên địa bàn phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy được nhiều người dân Hà Nội biết và đến lễ vào những dịp Tết, ngày rằm. Đến đây không chỉ có những,người đang cô đơn, lẻ bóng, những người không may trong chuyện gia đình, mà còn cả những đôi bạn trẻ đến cầu mong cho chuyện tình cảm tốt đẹp hơn.
Người đi chùa Hà cũng không sắp lễ nhiều như ở những chùa khác, ở Bia Bà (Bắc Ninh), Chùa Hương (Hoài Đức), Phủ (Tây Hồ)… lễ rất lớn với những hoa quả, trầu cau, bánh kẹo, rượu bia và khăn áo ô lọng… nhưng lễ ở chùa Hà chỉ đơn giản là một ít tiền vàng, hoa, trầu cau đựng trong một chiếc khay nhỏ và một thứ không thể thiếu là tiền lẻ.
Những ngày đầu năm, cảnh chùa rất tấp nập. Nhiều người đến mà không mang theo lễ, chỉ đơn giản là đến thắp hương khấn phật. Thế nhưng, bốc quả, xem tử vi ở chùa Hà lại thu hút hơn những nơi khác. Các cô gái trước khi ra về không quên mua cho mình một lá số, mỗi tờ có giá 5.000 đồng, với mong muốn biết được đường tình duyên của mình trong năm tới thì cô gái, chàng trai nào cũng mua để xem.

 

 

Chùa Hà
 

Phủ Tây Hồ - cầu tài lộc

Phủ Tây Hồ được coi là một trong những chốn linh thiêng nhất trong hệ thống đình chùa của Hà Nội. Không chỉ những người dân Hà Nội, mà đa số du khách khắp nơi khi đến thăm Hà Nội thì đều đến thắp hương cầu phúc ở Phủ Tây Hồ.
Phủ Tây Hồ nằm trên một bán đảo nhô ra giữa Hồ Tây, trước là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía đông của Hồ Tây. Ở ngay đầu làng có một ngôi đền thờ bà chúa Liễu Hạnh, một người đàn bà tài hoa, giỏi đàn ca, thơ phú, đức độ nên đã được dân gian thần thánh hoá tôn làm Thánh Mẫu (Thánh Mẹ). Hàng năm cứ sau thời khắc giao thừa, khách hành hương về đây rất đông, vừa đi lễ Mẫu ban cho điều lành và mọi sự may mắn, vừa đi thưởng ngoạn cảnh đẹp Hồ Tây.
Hai bên đường dẫn vào Phủ là các hàng bán hoa quả, hương, oản, bánh kẹo, những cành vàng lá ngọc lấp lánh. Nhiều ông đồ cắm cúi viết sớ không kịp nghỉ tay trước hàng đoàn người đứng xếp hàng chờ đến lượt. Việc chen chân vào để đặt được lễ trong phủ thật khó, và không ít người phải đặt lễ lên đầu, hoặc phải bái vọng từ ngoài vào...

 


Phủ Tây Hồ
 

Quốc Tử Giám – xin chữ

 

Tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám những ngày đầu năm khách ra vào nườm nượp. Khách chủ yếu là những học sinh, có em được cha mẹ đưa đến cầu mong một năm mới học hành tấn tới, đỗ đạt.
Nói là "xin chữ" nhưng chính xác ra là mua chữ, giá trung bình năm nay cho một chữ mực tàu giấy đỏ cỡ 100.000 đồng. Bức tường bên phố Quốc Tử Giám dài khoảng trăm mét có tới dăm chục ông đồ, già có, trẻ có ngồi cặm cụi hành nghề. Đa số họ đều là thành viên CLB Thư pháp Hà Nội.
Sáng mồng Một đi xin chữ thánh hiền, lòng người như phơi phới và thanh tao, cả người cho lẫn người xin. Nhiều bậc cha mẹ cùng con cái ríu rít tới xin chữ. Ấy vậy nên, các thầy đồ lấy bao nhiêu tiền một chữ, ai nấy đều vui vẻ rút hầu bao, không mặc cả thêm bớt như đi mua sắm món hàng hóa thông thường.
 
Xin chữ đầu Xuân
 

Đền Trần – xin ấn

Cứ ngày 14 tháng riêng âm lịch hàng năm, Nam Định tổ chức lễ khai ấn Đền Trần, nơi thờ các vị vua đời Trần. Dù chỉ đêm 14 tháng Giêng mới khai ấn đền Trần nhưng mới mùng 7, mùng 8 Tết, phủ Thiên Trường Nam Định đã tấp nập du khách thắp hương, vãn cảnh đầu xuân. Vài năm trở lại đây, ngày càng nhiều người đổ về khu di tích Đền Trần, Nam Định xin ấn để cầu tài, cầu lộc, vạn sự như ý.
Đền Trần (Trần Miếu) thuộc Tức Mặc, phường Lộc Vượng, Mỹ Lộc, Nam Định. Đền Trần là công trình thờ tự có từ lâu đời, thờ 14 vị vua triều Trần. Khai ấn đầu năm là một hoạt động văn hoá mang đậm dấu ấn của triều đại phong kiến nước ta. Thế nên, dù Đền Trần có hơn hai chục ngày lễ nhưng Lễ khai ấn là đại lễ được mong đợi nhất trong năm. Theo tương truyền, ấn chỉ linh thiêng khi được lấy đúng vào 23 - 24h của ngày 14 tháng giêng. Vì vậy hàng vạn, hàng triệu người khắp nơi đổ về Đền Trần chen chúc, xô đẩy nhau cũng chỉ mong xin được ấn vào thời khắc thiêng liêng ấy.
Để xin được ấn vua ban lúc nửa đêm, người ta phải xếp hàng, xin thẻ từ trước đó rất lâu, hoặc đến thời điểm khai ấn. Loại này được đóng trên giấy điệp vàng là dành cho "thường dân".
Còn có một loại ấn được đóng trên tấm lụa đỏ, loại này chỉ có rất ít, và chỉ dành cho các quan chức cấp tỉnh, Trung ương về dự. Cứ 10 khắc trên lụa đỏ chỉ có 1 tấm duy nhất là có giá trị vì được cắt ra từ tấm áo hoàng bào của các đời vua. Và nếu ai may mắn được tấm lụa đó thì coi như đã đắc lộc, đắc thọ.
 
Đền Trần
 

Trảy hội Chùa Hương

Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật tử cùng tao nhân mặc khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật.
Hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, trong địa phận huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. Xã gần sáu thôn: Tiên Mai, Phú Yên, Hội Xá, Đục Khê, Yến Vĩ và Hạ Đoàn.
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.
Trong suốt những ngày hội là sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, là sự thành kính của các bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ lão ai ai cũng có phần riêng của mình. Cả ở những triền núi thấp cao, những rừng cây, rừng mơ… là những đoàn người trẩy hội. Kẻ đi ra, người đi vào, kẻ đi lên, người đi xuống bồng bềnh vào những đám mây nhẹ. Họ gặp nhau, quen hay không quen cũng vui vẻ chào nhau bằng một lời chào: "Nam mô a di đà Phật" nhẹ nhàng. đằm thắm và ấm áp…

 

 

Trảy hội chùa Hương
 

Hành hương Yên Tử

Đã thành thông lệ, cứ mỗi dịp đầu xuân, hàng vạn người dân cả nước lại trẩy hội về với non thiêng Yên Tử- kinh đô Phật giáo nước ta thế kỷ 13.
Sau lễ hội chùa Hương, thì lễ hội Yên Tử đang là lễ hội hành hương lớn thứ hai vào mùa xuân ở nước ta với cả quy mô và thời gian trẫy hội. Lễ hội Yên Tử bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng âm lịch hằng năm và cũng kéo dài suốt mùa Xuân.
Vẻ đẹp của Yên Tử là sự kỳ vĩ của núi non hoà với nét cổ kính trầm mặc của hệ thống am, tháp cùng với đường tùng, thông, đại, trúc, mai mọc ở hai bên đường toả bóng mát làm cho du khách thập phương quên nỗi mệt nhọc đường dốc cheo leo.
Hiện nay hệ thống cáp treo ở Yên Tử đã đi vào hoạt động, đưa du khách tới chùa Hoa Yên ở độ cao 534 m so với mực nước biển, nơi có hai cây đại 700 năm tuổi. Từ đây du khách tiếp tục leo núi, tới các ngôi chùa nằm rải rác trên đường đi tới chùa Đồng. Đường lên chùa Đồng du khách có cảm tưởng như đi trong mây.

 

 

hành hương Yên Tử
 

Đền Bà Chúa Kho – xin lộc rơi lộc vãi

Các thương gia, các nhà doanh nghiệp ai cũng cố vào được cửa Bà. Bằng mọi giá, mọi cách, họ phải khấn vái và đặt lễ được trước… mặt Bà. Có vậy Bà mới cho lộc, mới mở kho xuất tiền cho vay. Mọi người lên lễ Bà Chúa Kho để vay tiền hoặc xin "lộc rơi lộc vãi". Vay thì thủ tục khá rắc rối, phải qua nhiều ban bệ. Đa số mọi người lên xin lộc rơi lộc vãi nhưng năm nào cũng lên tạ lễ Bà đã phù hộ cho.
Đi lễ Bà Chúa Kho đã trở thành thói quen đối với nhiều người, đặc biệt là giới kinh doanh. Cứ vào dịp đầu xuân năm mới hàng ngàn khách thập phương trong cả nước lại đến chiêm bái, thắp hương và dâng phẩm vật kính lễ bà Chúa kho, cầu mong một năm mới an lạc thịnh vượng và hạnh phúc.

 

 

 Đền Bà Chúa Kho

 

Những tin cũ hơn

Khái niệm và giá trị của thờ cúng tổ tiên

Khái niệm và giá trị của thờ cúng tổ tiên

— 25 Tháng Năm 2017

Đã qua nhiều thế kỷ, người Việt Nam dù ở những vùng đất khác nhau, từ miền Bắc đến miền Nam, dù trong nước hay xa xứ vẫn luôn hướng về vùng đất Tổ. Mọi người coi đó là quê hương xứ sở của cả cộng đồng. Nhiều người không tiếc công sức, tiền của; chẳng ngại xa xôi, vất vả đã hành hương về đền Hùng để thắp nén nhang tưởng nhớ tổ tiên của mình. Hàng năm lễ hội đền Hùng trở thành lễ hội của cả dân tộc.

Nhớ Tết Xưa!

Nhớ Tết Xưa!

— 25 Tháng Năm 2017

"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh" Trong khoảnh khắc của tiết trời sang xuân đọc câu đối trên chúng ta tưởng nhớ đến hương vị tết xưa ở các vùng quê trên khắp mọi miền của đất nước ta, những hương vị tết mà ngày nay trong cuộc sống hiện đại bộn bề, ồn ào, náo nhiệt chúng ta ít được gặp lại, có chăng chúng ta chỉ được hoài tưởng qua câu chuyện kể của ông bà, những người “Muôn năm cũ- thơ Vũ Đình Liên” hoặc chúng ta đọc đâu đó trong tài liệu nói về Tết của ngày xưa.

Một vài suy nghĩ về việc họ - rất dễ và cũng rất khó

Một vài suy nghĩ về việc họ - rất dễ và cũng rất khó

— 25 Tháng Năm 2017

Chăm lo việc họ là xuất phát từ trong sâu thẳm tấm lòng thành kính với tổ tiên, gắn kết tình đồng tộc. Tham gia vào công việc hoạt động dòng họ rất dễ và cũng rất khó, bởi họ cần hoàn toàn tự nguyện, không gò ép đồng thời có khuyến khích, cần khéo léo nhắc nhở, đôn đốc, không thể bỏ mặc.

Bàn thờ tổ tiên- Nét văn hóa dân tộc

Bàn thờ tổ tiên- Nét văn hóa dân tộc

— 25 Tháng Năm 2017

Người Việt từ xa xưa, đồng thời với những tín điều của tôn giáo đang theo, vẫn có một tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên - đó không phải là một tôn giáo, mà là do lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, cụ kị đã khuất.

Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

— 25 Tháng Năm 2017

Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Bài gửi tdthuy_25 on Wed May 11, 2011 5:43 pm [b]Trần Đăng Sinh, Giảng viên triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tạp chí Triết học Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng mang tính lịch sử - xã hội, tồn tại phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt tốt của hiện tượng này là ở chỗ, nó nhắc thế hệ những người đang sống phải nhớ đến nguồn, “ăn quả nhớ người trồng cây”, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc sinh thời và thờ phụng khi mất. Sự thanh cao, tinh khiết của nó đã trở thành đạo lý, lẽ sống, trở thành nét đẹp trong truyền thống văn hoá của nhiều dân tộc. Song, nó cũng là sự phiền toái, nặng nề khi mang màu sắc mê tín, dị đoan, vụ lợi. Trong lịch sử và trong cuộc sông hiện tại, nó đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của con người. Các học giả trong nước và ngoài nước đã có nhiều ý kiến xung quanh hiện tượng thờ cúng tố tiên này. Đây là một loại hình tín ngưỡng hay tôn giáo? hay chỉ là một tập tục, thói quen, một hoạt động mang tính văn hoá, đạo đức?... Để có cơ sở khoa học đánh giá hiện tượng này, cần phải làm rõ nguồn gốc và bản chất của nó.