Bàn thờ tổ tiên- Nét văn hóa dân tộc

23:51 - 25/05/2017 Tin tổng hợp Admin 1437

Người Việt có niềm tin rằng: chết chỉ là sự tiêu tan của thể xác, còn linh hồn vẫn còn và luôn trở về với gia đình. Chết chẳng qua chỉ là một cuộc trở về gặp ông bà, tổ tiên. Vong hồn của người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi họ trong công việc hàng ngày và giúp đỡ (phù hộ) họ trong những trường hợp cấn thiết. Và người Việt còn tâm niệm: “trần sao âm vậy” – người sống cần gì, sống như thế nào thì người chết cũng như vậy. Bởi tin thế, nên việc lập bàn thờ để thờ cúng Tổ tiên là điều không thể thiếu trong đời sống con người.

Ngôi nhà truyền thống của người Việt thường có ba hoặc năm gian, trong đó gian giữa được coi là chỗ trang trọng nhất, là trung tâm của ngôi nhà. Những việc quan trọng như: thờ phụng, tiếp khách, sinh hoạt...  đều diễn ra ở gian này. Gian giữa lại luôn có cửa lớn ra vào, mở cửa là nhìn thấy trời đất lưu thông, âm dương hòa đồng để rồi cảm hoá lẽ đời. Bàn thờ là nơi thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với Tổ tiên nên bàn thờ thường được lập ở chính giữa gian giữa ngôi nhà, gia chủ không được kê giường ngủ đối diện với bàn thờ.

Tuỳ quy mô ngôi nhà và cũng tuỳ mức sống từng gia chủ mà bàn thờ có kích thước và hình thức khác nhau.
Những gia đình nghèo khó, với những đồ đạc trong nhà cũng đơn sơ, thì bàn thờ có khi chỉ là vạt phên tre giữa hai cột trong của gian giữa, bên trong có bát hương nhỏ. Còn ở những gia đình thuộc loại “thường thường bậc trung” trở lên, thì bàn thờ được đóng đàng hoàng. Có gia chủ còn dùng mặt tủ làm bàn thờ hoặc đóng cái giá gác làm lên tường. Cho dù bàn thờ có được thiết kế ra sao thì điều quan trọng nó luôn phải ở vị trí trang trọng, có độ cao thích hợp để khi cúng mọi người tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với Tổ tiên.

Trên bàn thờ có thể có khám, ngai hay đặt bài vị được chạm khá cầu kỳ và sơn thếp cẩn thận. Trước bài vị có một hương án rất cao. Trên hương án này, tại chính giữa là một bát hương để cắm hương khi cúng lễ. Bát hương được chăm nom rất cẩn thận, chu đáo, và không được xê dịch. Đằng sau bát hương là một chiếc kỷ nhỏ, trên kỷ có ba chiếc đài có nắp và trên nắp có núm cầm. Ba đài này đựng ba chén rượu nhỏ lúc cúng lễ. Hàng ngày, đài được đậy nắp để tránh bụi bặm, chỉ mở ra trong những dịp lễ tết, ngày rằm, mùng một. Hai bên bát hương là hai cây đèn (hai ngọn đèn dầu) hoặc hai cây nến (ngày nay tại các đô thị, người ta thắp hai cây đèn điện). Gần hai bên bát hương, ngoài hai cây đèn có khi còn có hai con hạc chầu hai bên. Ở mé ngoài hai cây đèn, gần hai đầu hương án là hai ống hương dùng để đựng hương.

Ngoài các đồ thờ trên, còn có một lọ lộc bình hoặc đôi song bình bày trên bàn thờ để cắm hoa trong những ngày giỗ chạp, ngày Tết. Tấm biển treo cao nằm ngang trên mé trước bàn thờ, trên có những chữ Hán thật lớn, nhiều nhà dùng chữ Nôm (thường là ba, bốn chữ) là hoành phi. Hai bên cột hoặc hai bên tường nhà có treo những câu đối như:

“Tổ công phụ đức thiên niên thịnh

Tử hiếu tôn hiên vạn đại vinh”


Hoặc:

“Phúc sinh phú quý gia đường thịnh

Lộc tiến vinh hoa tử tôn hưng”


Những chữ viết trên hoành phi, câu đối là tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với Tổ tiên hoặc để ghi tụng công đức của Tổ tiên. Những nhà khá giả, giàu có thì hoành phi, câu đối được làm bằng gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn đen khảm xà cừ, còn nhà nghèo thì hoành phi thường là những tấm cót đóng nẹp, dán lên những tờ giấy đỏ có viết chữ lớn, đôi liễn hay những tờ giấy hồng có viết những câu đối.

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, kiến trúc nhà ở nông thôn ít biến đổi, nên kiểu bàn thờ cổ truyền vẫn phát huy tác dụng, song những ngôi nhà có kiến trúc hiện đại, nội thất hiện đại ở thành phố thì cách bố trí và các đồ thờ cũng có nhiều biến đổi sao cho phù hợp với toàn cảnh ngôi nhà (chiếc hương án cầu kỳ, những bức hoành phi, câu đối không còn phù hợp với nội thất nhiều gia đình).

Bàn thờ là nơi thiêng liêng nên người ta không để các thứ lặt vặt, các vật dụng thường ngày trong sinh hoạt lên bàn thờ mà lúc nào cùng phải giữ bàn thờ và đồ thờ được sạch sẽ, uy nghiêm. Và bất cứ trong hoàn cảnh nào, dù túng thiếu đến mấy người ta cũng không đem cầm cố hay bán đồ thờ.

Trước mỗi biến cố xảy ra trong gia đình (chẳng hạn như: dựng vợ gả chồng cho con cháu; con cháu chuẩn bị đi thi; làm nhà mới; làm ăn; vợ sinh con; lập được công danh; trong nhà có người đau ốm, có người chuẩn bị đi xa, làm việc lớn...), gia chủ đều khấn vái gia tiên, trước hết là để trình bày sự kiện, sau là để xin sự phù hộ.

Mỗi lần cúng tế, tùy theo các gia chủ nghèo, giàu và tùy những buổi lễ, đồ lễ có thể gồm: rượu, hoa quả, vàng hương, xôi chè, oản, cỗ mặn, có khi thêm đồ hàng mã... và nhất thiết không thể thiếu một chén nước tinh khiết (nước mưa) bởi nước mưa biểu hiện cho sự trong sạch tâm linh trước tổ tiên, thánh thần. Trong những trường hợp cần thiết, đồ lễ có thể chỉ cần một chén nước nước mưa, một nén hương thắp lên bàn thờ là đủ. Bàn thờ khi làm lễ phải có thắp đèn hay thắp nến. Hương trên bàn thờ bao giờ cũng thắp theo số lẻ (một hoặc ba nén...) và các nén hương phải được cắm ngay ngắn. Khi chân hương trong bát hương đã đầy, gia chủ thắp hương xin phép Tổ tiên nhổ chân hương, đem hóa thành tro rồi đổ xuống ao hồ.

Bàn thờ Tổ tiên là điểm hội tụ truyền thống tốt đẹp của gia đình, gợi lên một chiều sâu tâm linh “cây có gốc, nước có nguồn”,  biểu hiện nếp sống văn hóa biết vun trồng gốc để cây đơm hoa đẹp, rồi kết trái ngọt, và từ đó sẽ toả sáng giá trị văn hóa soi cho con cháu bước vào tương lai

Những tin cũ hơn

Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

— 25 Tháng Năm 2017

Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Bài gửi tdthuy_25 on Wed May 11, 2011 5:43 pm [b]Trần Đăng Sinh, Giảng viên triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tạp chí Triết học Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng mang tính lịch sử - xã hội, tồn tại phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt tốt của hiện tượng này là ở chỗ, nó nhắc thế hệ những người đang sống phải nhớ đến nguồn, “ăn quả nhớ người trồng cây”, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc sinh thời và thờ phụng khi mất. Sự thanh cao, tinh khiết của nó đã trở thành đạo lý, lẽ sống, trở thành nét đẹp trong truyền thống văn hoá của nhiều dân tộc. Song, nó cũng là sự phiền toái, nặng nề khi mang màu sắc mê tín, dị đoan, vụ lợi. Trong lịch sử và trong cuộc sông hiện tại, nó đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của con người. Các học giả trong nước và ngoài nước đã có nhiều ý kiến xung quanh hiện tượng thờ cúng tố tiên này. Đây là một loại hình tín ngưỡng hay tôn giáo? hay chỉ là một tập tục, thói quen, một hoạt động mang tính văn hoá, đạo đức?... Để có cơ sở khoa học đánh giá hiện tượng này, cần phải làm rõ nguồn gốc và bản chất của nó.

Thư cảm ơn

Thư cảm ơn

— 25 Tháng Năm 2017

Hội đồng gia tộc- Tộc TRƯƠNG CÔNG Thanh Quýt trân trọng cám ơn:

Long trọng lễ dâng hương Quốc tổ Đền Hùng

Long trọng lễ dâng hương Quốc tổ Đền Hùng

— 25 Tháng Năm 2017

Đúng 7h sáng 12/4 đoàn đại biểu dẫn đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng nhân dân đã tiến hành Lễ dâng hương Giỗ Tổ Hùng Vương theo nghi thức Nhà nước.

Tứ Pháp - Tín ngưỡng độc đáo của người Việt

Tứ Pháp - Tín ngưỡng độc đáo của người Việt

— 25 Tháng Năm 2017

Vùng Luy Lâu, một miền đất cổ, thủ phủ đất Giao Châu xưa (nay là xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) nằm ở khoảng giữa đồng bằng Bắc Bộ, một vùng châu thổ phì nhiêu có mật độ quần cư đông đúc, là điểm gặp gỡ của nhiều đường giao thông thủy bộ, đặc biệt là đường thủy. Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, nơi đây đã ra đời một loại hình tín ngưỡng mới của người Việt được một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là Phật giáo dân gian Việt Nam, với vị Phật tổ - Phật Mẫu Man Nương cùng bốn người con của Bà – bỗn Phật Bà mà dân gian quen gọi là Tứ Pháp: Pháp Vân (Phật Mây), Pháp Vũ (Phật Mưa), Pháp Lôi (Phật Sấm), Pháp Điện (Phật Chớp).

Họ Phạm thành lập Quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam

Họ Phạm thành lập Quỹ Tấm lòng vàng họ Phạm Việt Nam

— 25 Tháng Năm 2017

Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam từ khi thành lập đến nay (24.10.1996) đã thực hiện được nhiều hoạt động đúng theo như mục đích để ra là tập hợp, đoàn kết tất cả những con người họ Phạm có chung một tâm nguyện là tìm về cội nguồn, tri ân tiên tổ, đền ơn đáp nghĩa các bậc tiền bối của dòng họ, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng họ, giáo dục các thế hệ đi sau học tập những tinh hoa và truyền thống dòng họ.