Trong cái uống của người Việt thì trà xếp thứ nhì sau rượu, nên dân gian thường gọi chung là rượu - trà.
Dân Việt có thói quen gọi trà là trà Tàu, dầu nay trà trồng tại xứ mình rất ngon, dư uống và còn xuất khẩu nữa. Ở Bắc thì có trà Bắc Thái, Trung có trà Mai Hạc, Nam có trà Bảo Lộc nổi tiếng là ngon .
Thú nam nhi
Uống trà là thú ăn chơi tao nhã như cái thú hút thuốc lào, chơi cây kiểng… mà đa phần dành cho đấng nam nhi :
Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà liên-tửu ngâm Nôm Thúy Kiều (ca dao Bắc)
Hay:
Uống nước trà Tàu
Ngồi ghế trường kỷ (tục ngữ)
Trà có nguồn gốc bên Tàu mà theo ông Phạm Đình Hổ (1768-1840) trong “Vũ Trung Tùy Bút” thì vào thế kỷ 18, trà Tàu rất quí chỉ có những người thế tộc mới uống trà Tàu. Vì vậy cho nên người uống trà tới nay vẫn giữ phong cách tao nhã như kiểu thế tộc quý phái ngày xưa. Thế mới có câu:
Trà Tiên rượu Thánh
Trà lầu, tửu quán (tục ngữ)
Trà từ bên Tàu qua bên ta, từ Bắc vào Trung đến miệt vườn Lục Tỉnh đã có nhiều biến đổi trong cung cách uống, cách pha chế.
Trà là gì ?
Ai cũng biết là nước pha với trà.
Nhưng nước pha trà phải nấu sôi mới cho ta đầy đủ cái hương vị của trà.
Nước thì phải là nước mưa, chớ nước sông, nước giếng có tạp chất, có phèn… sẽ làm mất mùi trà. Hồi xưa ông bà mình ở miệt vườn, nấu nước pha trà bằng cái siêu, làm bằng đất nung. Cái siêu còn dùng để sắc thuốc Bắc, thuốc Nam rất gần gũi với các bà, các cô nội trợ.
Nước nấu bằng siêu, trước khi sôi có phát ra tiếng kêu gọi là “kêu siêu” như báo trước là nước sắp sôi. Thuở xưa, người mình xài rơm, củi để nấu bếp, nên có rất nhiều khói. Nấu nước pha trà phải biết ý chớ không nước bị “hôi khói” thì coi chừng “làm dâu mất mẹ chồng” đấy!
Trà vào Việt Nam tạo ra phong cách uống trà Việt khác người Tàu mà có người gọi là “trà đạo Việt”. Cái trà đạo Việt thể hiện qua cách pha trà, rót trà, dụng cụ uống trà đến khung cảnh uống trà…
Trà đạo Việt
Theo sách vở thì nói rằng Chúa Trịnh Sâm là sư tổ trong nghệ thuật uống trà, sau này khi nhà Nguyễn đóng đô ở Huế tạo ra hệ phái uống trà riêng cho đất Thần Kinh.
Xưa, dụng cụ uống trà của ta đắt tiền, quí hiếm, đều sản xuất bên Tàu, nhưng nên nhớ là các kiểu dáng đó không có lưu dùng ở xứ Tàu. Kiểu dáng của ta xinh đẹp, nhỏ nhắn do các sứ thần của mình đi sứ sang Tàu đặt các nghệ nhân bên đó làm. Rồi sau này, các nhà buôn Tàu bắt chước sản xuất ra, đem qua nước ta bán, mà dân gian quen gọi đó là “đồ sứ” (đồ do sứ thần mang về). Các bộ tách pha trà, bộ ly, nhạo uống rượu của ta sau này sản xuất ở trong nước cũng lấy từ kiểu dáng ngày xưa do các sứ giả của ta mang về.
Uống trà một mình gọi là độc ẩm, có hai người thì dùng bình hai chén gọi là đối ẩm, nhiều nữa thì dùng bộ trà nhiều chén gọi là quần ẩm.
Trước khi pha trà phải dùng nước sôi tráng bình và chén cho nóng.
Lấy mấy ngón tay, bóc một nhúm trà với số lượng vừa phải, theo thói quen và theo nhu cầu cần cho bao nhiêu khách. Bỏ nhúm trà vào lồng bàn tay kia, săm soi nhìn các cánh trà; đoạn cho vào bình và châm nước sôi vào. Nhớ chắt bỏ nước ngay mà trong nghề gọi là rửa trà.
Trà đã rửa, bình đã ấm, sẵn sàng để pha trà, khách và chủ ngồi trò chuyện chờ cho nước “ra trà”.
Trà rót ra tách, phải chia đều theo vòng kim đồng hồ rồi ngược lại, hết hai vòng là vừa hết nước nhất, để tách trà nào cũng có cùng một độ đậm như nhau.
Nếu xài chén tống (chén lớn) thì rót ra chén tống rồi mới chia ra chén quân (chén nhỏ).
Bên chén trà, chủ khách có bao nhiêu điều để nói, để kể nhau nghe, thật vô cùng tâm đắc và ý nhị làm sao. Cái cung cách uống trà của người mình nay không quá phức tạp như người xưa, nhưng vẫn còn giữ được cái gì tinh tế, tao nhã, mang nét văn hóa riêng của người mình.
Uống trà lâu ngày phải ghiền bởi lẽ cái hương vị trà rất độc đáo, dịu dàng thấm sâu lúc nào mà ta không biết.
Trà cho ta vị đắng, hơi chát, nuốt vào để lại một chút vị ngọt nơi cổ họng. Đắng-chát-ngọt sẽ tan mau, nên người uống trà phải uống tiếp chén thứ hai rồi chén thứ ba mới hưởng hết được cái dư vị ngon của trà.
Uống trà đến ba ly, ba chén là vừa đủ. Pha trà đến ba lần là đã lấy hết hương vị trà rồi. Do đó người xưa rót trà mời khách hoặc rót để cúng chỉ rót ba lần mà thôi, thế mới gọi là “trà tam-rượu tứ”.
Sau này trà còn được ướp bông ngâu, bông sứ, bông sói và ngon nhứt là trà ướp bông sen… Có mấy loại trà ướp mà người Việt mình ưa chuộng tới nay là trà Long Tỉnh, trà Thiết Quan Âm, trà Chính Thái.
Ba loại trà
Trà nhìn chung có ba loại tùy theo cách chế biến mà ra:
Trà xanh là trà đã ép bỏ chất tinh dầu rồi đem sấy khô như trà Long Tỉnh, trà Ô Long là loại cho ủ lên men bán phần có mùi thơm như loại Thiết Quan Âm, riêng trà Đen (Hồng trà) là loại chế cho lên men toàn phần, nước màu đỏ, người Âu Mỹ rất ưa thích.
Trà là thức uống rồi trở thành văn hóa trong ẩm thực của người Việt mình, từ Bắc vào Nam mỗi miền, mỗi nơi mỗi khác, nay tìm hiểu cội nguồn cũng nên lắm chớ.
Trà miệt vườn
Ở miệt vườn, ngoài lối uống trà cầu kỳ sang trọng như ở Bắc, ở Trung còn có một lối uống trà dân dã, bình dân ..
Cái bình uống trà ở miệt vườn xưa rất bự, chứa hơn một lít nước, có tráng men và vẽ hoa văn, hình bát tiên… rất phổ biến tới nay. Cho vào bình nguyên một gói trà, châm hết một siêu nước thì vừa đầy cái bình. Bình này người ta gọi là cái “bình tích” trà. Độc đáo hơn nữa là bình trà được đặt vào trọn trong cái vỏ dừa khô, để giữ nóng lâu. Từ cái vỏ trà bằng trấu biến thành cái vỏ bằng trái dừa, mới thấy hết cái cách sáng tạo của người miệt quê mình.
Các ông bà già xưa còn có thói quen uống trà bằng chén kiểu, vừa húp vừa uống rất điệu nghệ. Trà nguội thì quí cụ lại đổ hết ra cái tô kiểu lớn cả nước lẫn xác trà để giải khát suốt ngày.
Cái thói quen ở quê là uống trà vào buổi sáng sớm như nay ta uống cà phê sáng vậy. Uống xong bình trà thì mặt trời vừa ló dạng… bắt đầu cho ngày mới. Uống trà đối với người miệt quê ngoài là thú vui, còn làm dễ tiêu hóa, điều hòa tinh khí, có ích cho sức khỏe nữa.
Nhiều người còn rang đậu, gạo, hột keo để nấu nước uống thay trà, vừa thơm vừa bổ dưỡng, mát gan nhứt là vào mùa Hè.
Cái tục lệ uống nước gạo rang, đậu rang… tới nay vẫn còn vì bà con cho rằng uống nước đậu, gạo rang “tốt lắm” nên khuyên con, khuyên cháu không nên bỏ.
Uống trà với cá khô
Còn một kiểu uống trà độc đáo nữa. Đó là kiểu uống trà với cá khô. Nhiều người nghe phải “giựt mình” vì khô làm sao uống trà cho được. Trà phải uống với bánh ngọt, kẹo đậu phộng hoặc tệ lắm phải với đường tán, đường thẻ chớ! Này nhé!
Nếu có về Tân An, vô trong ruộng miệt Đồng Tháp, bạn sẽ được mời uống trà với cá khô. Vừa đặt chân vô nhà, chủ kéo bạn ngồi xuống bộ ghế trường kỷ, bảo mấy sắp nhỏ nấu trà, đãi khách phương xa. Kèm theo bình tích trà tổ bố là dĩa khô cá bóng trứng ngào đường. Con cá bóng trứng nhỏ bằng đầu mút đũa, vàng óng và lóng lánh phơi cái bụng đầy trứng thấy mà thèm. Nhai con khô vừa mặn, vừa ngọt, vừa béo, giòn giòn… nuốt xong, ngụm một tách nước trà Kỳ Chưởng mới hiểu thế nào là uống trà với khô. Lúc đầu còn hơi ngán, làm vài con nữa bạn sẽ thấy ngon và bắt đầu “biết đã”, biết thích.
Ngồi trong căn nhà ngói ba căn, hai chái, nền đất nghe mát rượi giữa trưa Hè, bạn sẽ nghe gia chủ kể chuyện lai lịch cái kiểu uống trà “kỳ cục” của miệt này.
Hồi đó – gia chủ say sưa kể – nhà có tiền nhưng ở tận Đồng Tháp này đâu có quán xá, chợ búa gì đâu, nên uống trà thường cầm tay bằng đường tán. Gặp khi hết đường phải uống “khan khan”, đâm ra buồn nên kiếm “đồ cầm tay” cho vui. Sẵn nhà có khô lấy nhai bậy cho đỡ buồn, rồi thành quen thấy ngon và ghiền tới nay là vậy đó. Nay dầu bánh trái không thiếu, chợ búa sát nhà mà nhiều người còn có thói quen uống trà với khô tạp ngào đường.
Từ cái bình tích trà, cái vỏ dừa, đến cách uống nước trà bằng con khô… là những cái nét đẹp xưa của người dân miệt vườn.
Giữ gìn cái đẹp xưa không chỉ là “hoài cổ” mà là vì thiết tha với tổ tiên!
Trà dầu cao sang hay dân dã vẫn là thức uống dùng để cúng của người mình. Có những lễ cúng không cần rượu, nhưng hình như trà không thể thiếu.
Ngày Tết, ngày giỗ ngoài cúng cơm hai buổi sáng, chiều thì trà được dâng cúng vào buổi tối.
Từ khi trà có mặt như là thức uống của ta, thì trà không còn phân biệt sang hèn, làm tri kỷ từ vua chúa đến thứ dân .
Nếu bạn rời bỏ một vùng nông thôn nào đó để ra sống ở các thành phố, chắc chắn sẽ mang theo trong hành trang của mình nhiều kỷ niệm không phai của một thời tuổi thơ nghèo khó. Trong hành trang ấy, thế nào cũng có những khúc đồng dao giản dị mà sâu lắng. Cùng với nhiều bài hát ru em, những câu ca dao tục ngữ, những khúc đồng dao ngày nhỏ là những bài học nhập môn về âm nhạc mà cũng như các bạn, tôi đã học được và mang theo cho đến ngày tóc đã lốm đốm bao sợi bạc…
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay phong tục thờ cúng tổ tiên là tục lệ thờ những người đã khuất trong gia đình, dòng họ. Đây là tín ngưỡng của nhiều dân tộc vùng Đông Nam Á đăc biệt là những nơi chịu ảnh hưởng mạnh của văn hóa Trung Hoa. Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng quan trọng đối với người Việt.
Đôi lúc sự hoành tráng không đe doạ được cái “tôi” cô đơn, cái “tôi” vằng vặc, cái “tôi” trống rỗng. Hoành tráng, đôi lúc làm ta tuyệt vọng, đôi lúc làm ta ghét bỏ, xa lạ. Nó cao và to quá so với cái “tôi” bản thể nhỏ nhoi.
Ngày nay, Khoa học công nghệ phát triển đa dạng, phong phú và nhanh chóng đi vào cuộc sống đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập kinh tế ngày càng phát triển thì vấn đề văn hoá, tộc người và quốc gia dân tộc… đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nhận thức đúng đắn, và đây là một trong những vấn đề luôn mang tính nhạy cảm.
Đến cuối năm 2009, huyện Tây Giang (Quảng Nam) đã cắm thêm 39 bảng tên làng tại các xã vùng cao như xã Dang, Tr’hy, Axan, Ch’um, Gary...Như vậy tất cả 70 làng người dân tộc Cơtu trong toàn huyện đã có tên viết bằng cả ba thứ tiếng (Anh, Việt và tiếng bản địa) trên nền các hình vẽ cách điệu ngôi nhà Gươl truyền thống với kinh phí khoảng 150 triệu đồng...Đây là một tin báo chí thuộc loại khá hay trong lĩnh vực văn hóa và nhờ đó, “điểm đến” Tây Giang cũng như những ngôi làng heo hút của huyện này sẽ được nhiều người biết đến. Đây cũng còn là một ví dụ sinh động của “toàn cầu hóa” mà nhà báo Mỹ Thomas Friedman đã viết trong tác phẩm nổi tiếng “Chiếc Lexus và cây Ô-liu” cách đây không lâu!