Trong nhiều khúc đồng dao mà tôi thuộc, lạ thay, hầu hết lại do những bạn chăn trâu thuở nhỏ sáng tác, mà nhờ rong chơi với họ, tôi đã nhớ rất lâu. Chẳng hạn bài Gọi nghé lạc bầy sau đây:
Huê hà huê hưởng
Cà cưỡng bay cao
Chóc mào bay thấp
Chim bay về ấp
Đỏ mỏ về trời
Huê…huê….
Nghe tiếng tao mời
Về ăn thịt chuột
Mâm trên thì luộc
Mâm dưới thì đầu
Mời chú mời lâu
Chăn trâu nuốt hết…
Những đứa trẻ ngồi trên lưng con trâu mẹ đi trước, một con nghé đủng đỉnh theo sau trở về chuồng sau một ngày gặm cỏ no nê ngoài đồng. Nhưng đến gần bìa làng, chú nghé ham chơi đã đi lạc hướng nào không rõ. Chú bé lại huê…huê… gọi, giọng hát nghe càng lúc càng thống thiết…
Huê…huê…
Huê con nghé nhỏ
Lạc đàn theo chó
Lạc ngõ theo trâu
Nghe mẹ rống đâu
Đâm đầu mà nhảy
…
Huê con nghé nhỏ
Ham chơi lạc mẹ
Huê…huê…nghé huê
Ham ăn thì lú
Ham bú thì mê
Không biết đường về
Để tao đi kiếm
Huê hà…huê hưởng
Huê dưỡng bến nào
Ai mua đừng bán
một vạn không cho
để nghé ăn no
đi cày đi bừa
đi trưa về tối…
Chú bé chăn trâu lại kể tiếp cảnh mình đi ở, ăn đói mặc rét, lại phải đi cắt cỏ, tắm mát, chăn dắt con nghé từ khi nó mới lọt lòng mẹ. Nghé ham chơi đi lạc là không thương công sức của chú bé.Tiếng hát huê…huê ấy đã đến tai con nghé và nó chạy thục mạng về theo bầy. Tiếng hát của nhiều đứa bạn chăn trâu của tôi hồi nhỏ chiều nào cũng vang vọng như vậy cho đến khi trời nhá nhem tối…
Những bài hát đồng dao có khi lại theo nhịp điệu lục bát quen thuộc, kể lể cuộc đời chăn trâu nhưng lại gắn liền với các mối quan hệ xã hội nông thôn ngày xưa:
Đời tôi đi ở giữ trâu
Dầm mưa dãi nắng biết đâu cơ hàn
Trên đầu đội nón mo nang
Một manh áo vải nghèo nàn đắng cay
…Trăng kia vừa xế ba sào
Tôi mang bụng đói bước vào chuồng trâu
nước đái nó lộn đầy đầu…
Giữa những cánh đồng quanh làng bao giờ cũng có một gò đất nhỏ, có cây đa, cây duối hoặc tán bồ đề che bóng cho đám chăn trâu nghỉ mát, bên cạnh đó thường có một cái miếu nhỏ xây gạch, đã cũ. Có nơi gọi đó là “cây mục đồng” hoặc “mã mục đồng”. Hàng năm, sau ngày gặt lúa tháng ba âm lịch là đến lễ cúng thần Nông. Đám trẻ chăn trâu lại có “lễ mục đồng” rất trịnh trọng và vui nhộn trong dịp này. Chúng chia nhau vào xóm, những nhà có trâu bò để quyên góp vật phẩm hoặc tiền bạc cho việc tổ chức lễ. Thường các nhà cho nếp, gà, vài quả trứng, bông hoa hoặc ít nếp nấu xôi. Bàn cúng đặt trong miếu hoặc giữa gò đất, dưới gốc cây mà hằng ngày chúng vẫn chơi đùa. Một vị lão nông khăn đóng áo dài, đồng thời cũng là chủ trâu trong xóm được mời ra làm chủ lễ. Ông lên hương đèn, khấn vái bốn phương tám hướng thật nghiêm túc. Có nơi chủ lễ còn đọc cả văn tế cô hồn:
... thương những người hồ thỉ tang bồng,
bất đắc chí cành cây vật vã
tưởng những kẻ lên dương xuống dốc
bị rủi ro mạng phải miệng hùm…
Đám trẻ cung kính đứng chung quanh, ánh mắt hân hoan, rạng rỡ bởi vì vào hôm đó chúng là chủ nhân của buổi lễ.
Xong lễ, những đứa trẻ chăn trâu dọn đồ cúng, xôi chè ra giữa gò ăn uống chuyện trò, hát đồng dao hoặc chơi những trò chơi trẻ nhỏ:
Có những khúc hát nói về chính công việc chăn trâu hằng ngày của họ:
Cây gậy bốn phương
Ra đường mạnh mẽ
Bầy trẻ chăn trâu
bay lâu thẳng cánh…
Hay liên quan đến một thực tế phổ quát trong đời sống thôn dã:
Trời mưa lâm thâm/cây trâm có trái
Con gái có duyên/đồng tiền có lổ
Bánh tổ thì ngon/bánh hòn thì béo
Cái kéo thợ may/cái cày làm ruộng
Cái thuổng đắp bờ/cái lờ thả cá
Cái ná bắn chim/cây kim may áo…
Trong nhiều bài đồng dao tôi học được của những đứa bạn chăn trâu ngày ấy, có những câu tuy hình ảnh giản dị nhưng lại có một nhịp điệu lạ và dùng chữ rất sáng tạo:
Tròng trà tròng trành
Trâu trèo trâu trượt
Thậm thà thậm thụt
Trò trụt trò trìa
Hay
Ta là con nít
Đội mũ lá mít
Cưỡi ngựa tàu cau
Đứa trước đứa sau
Rủ nhau một lũ
Và
Cầm cây rựa quéo
Trèo lên hòn núi quẹo
Đốn bó củi cong queo
Về nấu cám cho heo…
Sau này, các nhà lý luận âm nhạc vẫn nói đồng dao thường chuyển tải một cơ chế âm nhạc đậm đà màu sắc và tính chất dân tộc. Trẻ con tiếp nhận và hát đồng dao như một bộ mã di truyền của dân tộc. “Trong xã hội xưa cũ ấy, đồng dao là bài học vỡ lòng về âm nhạc và thi ca. Đó là những sáng tạo nghệ thuật đầu đời của con trẻ…”(Nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Trương Đình Quang).
Tôi lớn lên ở nông thôn, những buổi nghỉ học thường ra đồng nhặt phân trâu bò (về cho cha mẹ ủ để bón cho cây trồng) và nhiều lúc cùng chơi, cùng hát với những đứa bạn chăn trâu, nào đã biết gì những ý tưởng cao siêu ấy. Nhưng cả lúc đó và cho đến bây giờ, tôi vẫn đinh ninh rằng những người bạn thời ấu thơ ấy đã đánh thức trong tôi vẻ đẹp kỳ diệu và giàu chất thơ của tiếng mẹ đẻ.
Bây giờ, mỗi lần về quê, tôi vẫn thích ngồi chuyện trò với nhiều người trong số họ như những bạn cũ lâu ngày gặp lại và cùng nhớ lại, lắp ghép những khúc đồng dao cũ…
Giữa những kỷ niệm đẹp và buồn ấy, đã có một cuộc chiếc tranh tàn khốc đi qua làng tôi suốt 15 năm, mang đi nhiều đứa bạn tuổi nhỏ… Bây giờ, làng tôi đang từng bước trở thành thị trấn, nhiều nhà cao tầng đang mọc lên, ruộng đồng bị thu hẹp lại, đường sá đã trải nhựa rộng ra cho xe máy và ô tô xuôi ngược… Ít còn người nuôi trâu để cày ruộng, hình ảnh những cậu bé ngồi lưng trâu buổi chiều trở về làng đã vắng dần. Vắng họ là mất đi cả những khúc đồng dao tuổi nhỏ của tôi xưa…
Cụ Phan Khôi ngày xưa từng viết: “Con trâu chết vẫn còn lại cái sừng nhọn”. Đàn trâu ngày xưa đang vắng dần ở những làng quê, nhưng tôi vẫn ước ao sao những “chiếc sừng nhọn ” mang tên đồng dao của những cậu bé chăn trâu ngày ấy sẽ không bị rơi vào quên lãng!
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay phong tục thờ cúng tổ tiên là tục lệ thờ những người đã khuất trong gia đình, dòng họ. Đây là tín ngưỡng của nhiều dân tộc vùng Đông Nam Á đăc biệt là những nơi chịu ảnh hưởng mạnh của văn hóa Trung Hoa. Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng quan trọng đối với người Việt.
Đôi lúc sự hoành tráng không đe doạ được cái “tôi” cô đơn, cái “tôi” vằng vặc, cái “tôi” trống rỗng. Hoành tráng, đôi lúc làm ta tuyệt vọng, đôi lúc làm ta ghét bỏ, xa lạ. Nó cao và to quá so với cái “tôi” bản thể nhỏ nhoi.
Ngày nay, Khoa học công nghệ phát triển đa dạng, phong phú và nhanh chóng đi vào cuộc sống đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập kinh tế ngày càng phát triển thì vấn đề văn hoá, tộc người và quốc gia dân tộc… đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nhận thức đúng đắn, và đây là một trong những vấn đề luôn mang tính nhạy cảm.
Đến cuối năm 2009, huyện Tây Giang (Quảng Nam) đã cắm thêm 39 bảng tên làng tại các xã vùng cao như xã Dang, Tr’hy, Axan, Ch’um, Gary...Như vậy tất cả 70 làng người dân tộc Cơtu trong toàn huyện đã có tên viết bằng cả ba thứ tiếng (Anh, Việt và tiếng bản địa) trên nền các hình vẽ cách điệu ngôi nhà Gươl truyền thống với kinh phí khoảng 150 triệu đồng...Đây là một tin báo chí thuộc loại khá hay trong lĩnh vực văn hóa và nhờ đó, “điểm đến” Tây Giang cũng như những ngôi làng heo hút của huyện này sẽ được nhiều người biết đến. Đây cũng còn là một ví dụ sinh động của “toàn cầu hóa” mà nhà báo Mỹ Thomas Friedman đã viết trong tác phẩm nổi tiếng “Chiếc Lexus và cây Ô-liu” cách đây không lâu!
Làng Thanh Quýt (xã Điện Thắng Trung, Điện Bàn) có không ít những câu chuyện về những người đã âm thầm bảo vệ hương án thờ ông bà tổ tiên, giữ cho đến chết những bảng phả hệ, những sắc phong của dòng tộc giữa binh biến và ly tán. Có người đã ngã xuống để giữ gìn đến cùng những vật gia bảo ấy. Cháu con các tộc họ nhìn những tấm gương đó mà không ngừng phấn đấu quên mình để làm rạng rỡ gia phong, làng xóm.