Năm Tự Đức thứ 2 (1849), Trương Gia Hội đỗ cử nhân cùng khoa với Nguyễn Thông và Phan Văn Trị, được bổ làm Huấn đạo Long Thành, rồi lần lượt làm Tri huyện Trà Vinh và Tri phủ Hoằng Trị (Bến Tre).
Năm 1867, quân thực dân Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, ông cùng Nguyễn Thông và một bạn hữu khác “tỵ địa” [2] ra Bình Thuận, rồi nhận lệnh trở vào Nam lo việc tiếp tế cho nghĩa quân đang chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài [3]. Về sau, khi triều đình ra lệnh bãi binh, ông được cử làm Tri phủ huyện Hàm Thuận thuộc Bình Thuận.
Năm 1875, ông được điều động ra Huế, giữ chức Giám sát ngự sử; sau thăng Hộ khoa chưởng ấn, rồi Lang trung bộ Binh.
Tháng 11 năm 1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất. Sau khi thành thất thủ, ông được thăng làm Án sát Hà Nội, để cùng với Giám mục Mgr. Bohier, Linh mục Mgr. Dangelzer ở nhà thờ Kim Long và Tổng đốc mới Hà Ninh là Trần Đình Túc đi thương thuyết với viên chỉ huy Pháp là Francis Garnier [4].
Việc chưa xong, thì Lưu Vĩnh Phúc đã mang quân Cờ đen từ Hương Canh (nay thuộc Vĩnh Phú) đến Hà Nội khiêu chiến. Francis Garnier liền dẫn quân ra ngoài thành đón đánh, nhưng vừa ra tới Cầu Giấy thì ông bị quân của Lưu mai phục giết chết. Tức giận, quân Pháp bắt Trương Gia Hội giam mấy hôm.
Sau đó, theo lệnh của Trần Đình Túc, ông và Nguyễn Trọng Hiệp đi nói với Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết là không nên đánh nữa. Đến khi Khâm sai Toàn quyền đại thần Nguyễn Văn Tường cùng đại úy Philastre (sử Nguyễn ghi là Hoắc Đạo Sinh) ra Hà Nội giảng hòa, quân Pháp thuận trả lại 4 tỉnh (Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định) vừa chiếm, thì ông lại được cử đi ngay Ninh Bình để nhận lấy tỉnh thành này. Xong việc, ông trở lại Hà Nội để lo việc hiểu dụ dân bên lương bên giáo, vì lúc bấy giờ họ đang thù hằn nhau.
Năm 1875, Tuần phủ Bình Thuận Lê Đình Tuấn có việc bất hòa với Pháp, vua Tự Đức biết Trương Gia Hội "đã từng làm Tri phủ ở đây, địa thế và nhân tình đều am thuộc" bèn cho đến thay [5].
Ngày 10 tháng 11 năm 1877 (Đinh Sửu), ông mất tại chức ở tuổi 55, được an táng tại làng Hà Thủy, huyện Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
Theo sử nhà Nguyễn, thì Trương Gia Hội là "người trầm tĩnh, có tri thức, làm việc lanh lợi giỏi giang, thường lấy điều thanh đạm tự xử, chẳng những bạn đồng liêu tôn phục mà quân Pháp phần nhiều cũng tôn kính. Ông có hai người con là Trương Gia Tuấn được ấm thụ chức Kiểm thảo, và Trương Gia Mô [6] được chức Đãi chiếu [7]. Về sau, hai ông đều là chí sĩ hy sinh vì nước.
Sau thời gian bệnh nặng, bác sĩ Trương Thìn (sinh năm 1940 tại Huế) đã từ trần lúc 18g55 ngày 20-12 tại nhà. Không chỉ là bác sĩ, Trương Thìn còn là nhạc sĩ, ca sĩ, họa sĩ.
Tạo sĩ tương đương Tiến sĩ. Muốn đoạt chức Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) phải trải qua hai kỳ là Sở cử và Bác cử. Sở cử: 3 năm/1 lần mở ở các Trấn và phải qua ba kỳ thi (Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam), thi đỗ thì gọi là Biền sinh. Tiếp đến hỏi về sách, mưu lược, trúng cách được phong là Học sinh (ngang bằng với Hương cống), chờ dự khoa Bác cử (cũng như thi Hội) ở kinh đô. Bác cử có vua ngự khán ở Diễn Võ đường xem các đấu thủ tranh tài.
Tiến sĩ Trương Đức Quang (1478 -?), người xã Ngọc Quyết, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc thôn Chuế, xã Hoằng Yến, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa), 24 tuổi đỗ Đệ Nhị Giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống năm thứ 5 (1502), thời vua Lê Hiến Tông. Ông là một trong 8 Tiến sĩ họ Trương Đại Việt đã được khắc tên tuổi trong số 82 bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám Thăng Long. Ông làm tới chức quan Đề hình Giám sát Ngự sử và từng được triều đình Lê Sơ cử đi sứ Nhà Minh (Trung Quốc).
Tương truyền, từ đầu Công nguyên, hai ông bà Trương Nghiệp - Đào Thị Vĩ từ Ái Châu đến Bình Lao (trong đó có thôn Bảo Sài) lập nghiệp. Tại đây, ông bà sinh hạ một người con trai tên là Trương Mỹ, thiên tư dĩnh ngộ, trí tuệ tinh anh. Lớn lên học hành tấn tới, ham đọc sách, thích bắn cung. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, Trương Mỹ đến Hái Môn Giang xin được đầu quân đánh giặc. Hai Bà phong Trương Mỹ làm Đô thống Nguyên soái đại tướng quân. Ông liền đem quan đi đánh Tô Định ở Bằng Châu, Tô Định đại bại, góp phần vào chiến công hiển hách thu lại 65 thành trì, non sông về một mối. Hai Bà cho Trương Mỹ 10 cân bạc, 100 tấm lụa. Trương Mỹ lạy tạ, xin về quê an hưởng thái bình. Ông mất ngày mồng 7 tháng 8 âm lịch. Trưng Nữ Vương đã phong "Thượng đẳng phúc thần", cho trang Bình Lao phụng thờ mãi mãi. Nay Trương Mỹ là thành hoàng, được thờ ở đình Bảo Sài.
Trong những ngày tham dự các hoạt động trong khuôn khổ Festival Huế vừa qua, từ những sự tình cờ rất đáng nhớ, qua sự giới thiệu và tận tình giúp đỡ của Ông Lê Tân, Tổng Giám đốc CT Phú Đạt Gia- một doanh nghiệp Du lịch có tiếng tại HUẾ, tôi đã có cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc với Võ sư Trương Quang Kim- một ngôi sao sáng giá trong làng võ thuật cổ truyền Việt Nam và thế giới, đồng thời là một lương y nổi tiếng trong việc sử dụng khí công để chữa bệnh.