Bạn đọc trước đây đã từng quen với một Trương – Đăng – Dung – lý – luận, thì từ đây sẽ quen với một Trương – Đăng – Dung – thơ, những chiều kích khác nhau của một con người. Làm lý luận, Trương Đăng Dung thích thứ lý luận thuần túy, làm việc với các ý tưởng để sản sinh ra ý tưởng. Lý luận văn học của anh, vì thế, gần với triết học, hoặc đi ra từ triết học. Mà triết học với thi ca thì, như Aristote nói, là hai chị em ruột. Bởi vậy, nhìn ở cấp độ này, người ta không hề ngạc nhiên thấy nhà lý luận Trương Đăng Dung làm thơ.
Khác với nhiều người chỉ làm thơ khi đã về hưu, hoặc sớm hơn “nghỉ quản lý”, tức sau khi đã đạt được những viên mãn nào đó trên chính trường hoặc trong học thuật, mới làm thơ, theo cái truyền thống “trẻ Nho già Lão” (trẻ văn xuôi già thơ) của Đông Á, thì Trương Đăng Dung làm thơ khi còn là sinh viên đại học và liên tục cho đến ngày nay. Nhưng khoảng cách thời gian kể từ khi những bài thơ đầu tiên của anh được in ở báo Văn nghệ (1978) đến khi thơ anh xuất hiện lại trên tạp chí Sông Hương (2002) là hai mươi bốn năm. Bao năm qua, theo cách nói của Nietzsche, anh bị chi phối bởi “sức mạnh phản ứng”, nên dồn tâm trí nhiều vào việc đi tìm chân lý, dĩ nhiên với anh là chân lý học thuật. Và, lệ thường, một khi đã khẳng định chân lý này thì phải phủ nhận chân lý kia. Người ta phải đi vào khoa học, và với Trương Đăng Dung là khoa học văn học, là vì thế. Và cũng vì thế mà sức mạnh nguyên thủy nguyên khối trong con người bị phân chia, cuộc sống trở nên bị thiến hoạn. Dù là để tạo nên công trình khoa học đầy tính chiến đấu. Nhưng ngày càng, ở Trương Đăng Dung, “sức mạnh hoạt năng” vốn thuộc về nghệ thuật càng trở nên chiếm ưu thế. Thẩm mỹ cũng có xung đột, nhưng là thứ xung đột để ngỏ, không vì sự đúng sai mà vì sự khác biệt. Nghệ thuật, nhất là thơ, nhờ thế bảo toàn được sức mạnh uyên nguyên và sự đa dạng đời sống và thẩm mỹ.
Khoảng dăm năm trước đây, tôi, Trương Đăng Dung và Bửu Nam đi ăn tối ở Huế xưa và bàn phiếm về văn học. Nhân đà hứng chuyện, Bửu Nam nói sau này có lẽ Trương Đăng Dung “tồn tại” không phải nhờ những công trình lý luận của anh, mà bằng những bài thơ anh cho đăng tải gần đây. Lúc ấy, tôi thấy Trương Đăng Dung thoáng sững người, im lặng. Tôi vội ra hiệu cho Bửu Nam đừng nói tiếp và lảng sang chuyện khác. Nhưng gần đây, tại một quán cà phê ở Hà Nội, lời nhận xét này vô tình lại được thốt ra từ miệng một người bạn khác của Trương Đăng Dung. Lần này, tôi đã thấy anh mỉm cười vui vẻ. Hóa ra, nhận thức thơ, dù là thơ của mình, cũng là một quá trình. Thơ Trương Đăng Dung càng xuất hiện nhiều trên Sông Hương và tạp chí Thơ, càng được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao, thì càng khẳng định thêm điều đó ở anh. Và, giờ đây, tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng được trình làng. Sự kiện này không nói lên rằng con người thơ Trương Đăng Dung chiến thắng con người lý luận trong anh, mà chứng tỏ là trong “hoàn cảnh hậu hiện đại”, khi các “thần tượng” của Nietzsche hoặc các “đại tự sự” của Lyotard bị hoài nghi và sụp đổ, chân lý trở nên tương đối bởi sự đa nguyên và đa thể của nó, thì đây chính là thời của văn chương nghệ thuật. Trương Đăng Dung, tôi nghĩ, bao giờ cũng là người – của – hiện – tại, như tự ngôn của Picasso, “tôi không tiến đi đâu cả, tôi là hiện tại”.
Có thể nói, thơ Trương Đăng Dung là thơ – thời – gian. Người Việt ta, kể từ khi tiếp nhận văn minh phương Tây là bắt đầu từ giã thời gian truyền thống, thứ thời gian quay theo vòng quay của mùa màng hoặc sự tuần hoàn của vũ trụ, để chấp nhận thời gian khoa học, tuyến tính. Từ đó, với họ, thời gian một mặt là sự thành công, là của cải, tiền bạc, mặt khác là cái chết, một cái chết không thể đảo ngược, không thể cứu vãn. Thời gian, vì thế, trở thành một ám ảnh. Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những tiếng nói khắc khoải muốn vượt qua nỗi – ám – ảnh – thời – gian này. Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời – gian – Thơ – Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó, thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người, hay nói như M. Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ, tồn tại và thời gian, tồn tại là thời gian. Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời này đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ. Thơ Trương Đăng Dung hẳn vì thế mà có không khí hậu hiện đại.
Trương Đăng Dung là nhà thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ, thậm chí mỗi câu thơ của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào đó về cuộc đời. Có điều, khác với thơ cổ điển, thông điệp thơ anh không phải là những bưu kiện để người đọc nhận trọn gói, mà là những chấm phá phía chân trời vẫy gọi người đọc đến thám mã và đồng sáng tạo. Bởi lẽ mọi ý tưởng có sẵn, đúng cho tất cả mọi người đều là những ý tưởng đã hóa thạch, còn những tư tưởng sống thì đều đang vận động, dang dở và chưa hoàn kết. Tuy nhiên, làm một nhà thơ tư tưởng là rất khó. Nếu anh để cho một “sứ mệnh” nào đó lấn át ngôn ngữ, thì yếu điểm lập tức trở thành điểm yếu. Rất may là tư tưởng thơ Trương Đăng Dung không đông đặc mà trôi chảy với một khí lực mạnh mẽ vào từng câu chữ, khiến ngôn ngữ thoát khỏi được thân phận công cụ, để có đời sống tự thân, đôi khi tự phát sinh tư tưởng. Nhờ thế, trên đường đến với ngôn ngữ, mỗi bài thơ Trương Đăng Dung là một trạng – huống – ngôn – ngữ – nhân – sinh của anh. Và, qua anh, của người đọc.
Vài nét về quá trình học tập, công tác, sáng tác:
Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Budapest, Hungari năm 1978. Bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Budapest, Hungari năm 1984. Làm việc tại Viện Văn học từ 1978 đến nay. Phó Giáo sư văn học (1996). Phó Viện trưởng Viện Văn học.
Tác phẩm chính đã xuất bản:
Các vấn đề của khoa học văn học (chủ biên, 1990); Văn học và hiện thực (viết chung, 1990); Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1998); Tác phẩm văn học như là quá trình (2004). Dịch: Truyện Kiều (dịch sang tiếng Hungari, 1984); Đứa trẻ mồ côi (tiểu thuyết Moricz Zigmond, 1987); Lâu đài (tiểu thuyết F.Kafka, 1998); Thằng điên và quỷ sứ (tiểu thuyết Sarkadi Imre, 2000). Ngoài ra còn dịch một số tác phẩm nghiên cứu và lý luận văn học.
Nhà văn Trinh Đường tên thật là Trương Đình, sinh ngày 1 tháng 1 năm 1919, tại thôn Đại Thắng, xã Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Mất ngày 28 tháng 9 năm 2001 tại Hà Nội.
Bà Trương Mỹ Hoa (sinh ngày 18 tháng 8 năm 1945) là nguyên phó chủ tịch nước Việt Nam. Bà (bí danh, tên thường gọi Bảy Thư) sinh tại Bình Ân, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 21 tháng 5 năm 1963, hiện sống Hà Nội. Bà đã từng giữ các chức vụ Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Đảng Đoàn Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam và Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khóa 2002 - 2007).
Trước mỗi tin báo, CS113 luôn là lực lượng “đi tiên phong” nhưng “về lặng lẽ”. Trung tá Trương Văn Tùng-Đội phó Đội CS113 tại Hà Đông đã ...
Nghệ thuật khảm sành sứ giữ một vai trò quan trọng trong kiến trúc cung đình Huế. Hầu hết các quần thể di tích được công nhận là di sản văn hoá ...
Mọi người thường gọi đùa người làm công tác khuyến học là “vác tù và hàng tổng”. Nhưng ông Trương Sỹ Tiến - Chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh ...