Trái với lệ xưa, ngày nay rằm tháng bảy không phải “kẻ quảy, người không” mà trở thành phổ cập bởi đó là ngày lễ Vu Lan báo hiếu, tương tự ngày rằm tháng mười “mười người mười quảy” mang đậm ý nghĩa liên hoan mừng cơm mới sau một vụ mùa.
Trong mười hai cái rằm của một năm, riêng ngày rằm tháng giêng có nhiều ý nghĩa với nhiều nguyên thủy. Ngày này được gọi là lễ thượng nguyên, rằm tháng bảy là lễ trung nguyên và rằm tháng mười là lễ hạ nguyên. Rằm tháng giêng còn gọi là Tết Trạng nguyên và Tết Nguyên tiêu.
Theo Phật giáo thì ngày mồng một và ngày rằm hằng tháng được coi là ngày của Phật, các tín đồ đến ngày ấy phải đi lễ chùa. Rằm tháng giêng là rằm đầu tiên, nhiều người tin rằng ngày ấy đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng độ lòng thành của phật tử, lại thêm cái không khí vui xuân còn đậm đà cho nên số người đi chùa đông đảo hơn, họ bảo: “Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng”. Đây còn là ngày vía thiên quan, người ta đến chùa dâng sao để xin giải trừ tai ách.
Theo Nho học thì nguyên xưa ngày này là Tết Trạng nguyên. Nhân dịp trăng sáng đầu năm, nhà vua cho mở đại tiệc tại vườn thượng uyển, triệu các vị trạng nguyên đến dự hội, ngắm cảnh xem hoa làm thơ xướng họa, ca ngợi các vẻ đẹp thiên nhiên và ân đức nhà vua đã đem lại thái bình thịnh trị.
Dần dần những buổi họp mặt tương tự vào đêm rằm tháng giêng được các văn nhân thi sĩ tổ chức, không chỉ trong vườn thượng uyển với nghi lễ vua tôi mà ở nhiều nơi, việc xem hoa ngắm cảnh dưới trăng thoải mái hơn, những vần thơ xướng họa, đối đáp phong phú và sinh động hơn. Tết Nguyên tiêu hình thành, là một sinh hoạt tao đàn trang nhã.
Trong dân gian với số đông người theo phong tục thờ cúng ông bà thì rằm tháng giêng trước hết được hiểu một cách đơn giản là ngày rằm lớn.
Tùy theo tín ngưỡng và ngành nghề, có gia đình lễ bái chư Phật, có gia đình cúng thổ công, thần tài hoặc cúng âm hồn các đẳng... Nhưng luôn có cúng gia tiên, bày tỏ lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ, cảm ơn trên đã phù hộ cho con cháu an lành, làm ăn khá giả.
Đã là lễ tết, cúng bái thì đương nhiên có mâm cỗ để khi bái tất trong gia đình quây quần bên nhau hoặc mời thêm bà con chòm xóm.
Số gia đình theo đạo Phật cúng chay và ăn chay. Lễ vật dâng cúng thường dùng rau quả, trầu cau, chè xôi, các món đậu, canh xào...
Ở các chùa thôn quê, làng quê, cỗ bàn chỉ dùng tương chao, hoa quả nấu với đậu khuôn, đậu phụng, dầu phụng, không thêm nhiều hương liệu nên khi ăn người ta hay bảo nhau: ăn chay phải trộn nhiều món vào một tô mới ngon.
Thật vậy, từng món canh mướp, bí, bầu nấu riêng với đậu phụng sẽ trở nên đơn điệu song nếu trộn chung lại thành món canh tổng hợp ý vị. Chính những bữa ăn nguyên chất chay này với cây nhà lá vườn mới là những bữa ăn bổ dưỡng mà không độc hại.
Người ta cũng tránh chế biến thức ăn chay thay hình dạng tôm kho, thịt nướng, cho rằng làm như thế là cái tâm vẫn còn vọng tục, vẫn còn hướng về mặn, khó coi!
Làm thức ăn chay khó hơn thức ăn mặn. Tương ngon dùng gạo, nếp, đậu nành ủ mốc, phải vừa đủ mẳn, có vị ngọt, không chua, không hôi. Món chao và đậu dầm cũng phải khéo tay mới không có mùi khó chịu.
Ở miền Trung, nhiều người không theo đạo Phật thì ngày rằm cúng chè xôi và cúng mặn. Cỗ bàn mặn cũng gồm các món cơm canh tuy không thịnh soạn như ngày Tết Nguyên đán.
Nhiều làng quê ngày rằm, nhất là rằm tháng mười, cúng thịt vịt, bánh xèo và mì Quảng. Thông thường thì “nấu xôi nếp quạ, nấu chè đậu đen”. Nếp quạ màu đen, rất thơm dẻo. Thiên hạ cũng dùng nếp tượng nấu xôi. Nếp tượng màu trắng, hột lớn hơn các loại nếp khác.
Trong ý niệm dân gian, những gì lớn gọi là “tượng” (voi), những gì nhỏ gọi là “sẻ” (chim sẻ) như nếp tượng, xoài tượng, ốc trâu... hoặc ổi sẻ, xoài sẻ, trâm sẻ...
Gọi là xôi nhưng thực chất là cơm nếp. Chè nếp và đậu đen nấu với đường đen, có nêm chút muối. Phải chăng khi thưởng thức hương vị ngọt bùi, người ta vẫn cần thêm một chút mặn? Chè nấu thật “tới nước đường” thì để đến ngày sau không bị thiu.
Những chén chè đặt trên trang hàng tuần mới lấy xuống, trên mặt đóng một lớp mốc, gạt lớp mốc ấy đi, phần dưới vẫn ăn được. Trước đây, người đời hay dùng hai màu đỏ và đen.
Câu đối tết cũng viết bằng mực Tàu (màu đen) trên giấy đỏ. Màu đỏ tượng trưng cho sự tốt đẹp vui vẻ, màu đen là màu định hình cuối cùng, không pha chế được nữa. Dĩa xôi nếp quạ, chén chè đậu đen cũng là hai màu ấy. Nếp nấu với đường đen ngả ra màu hơi đỏ, trong chén chè điểm xuyết những hạt đậu màu đen...
Văn nhân thi sĩ, nhất là các cụ cao niên thì thưởng trăng thù tạc với nhau bằng chén trà, chung rượu, bàn cờ. Các cụ ăn uống ít, chỉ ngâm nga bàn tán những câu tâm đắc. Đúng như cái cảnh tuyệt vời thơ mộng của đêm nguyên tiêu:
Kỳ cục đả thanh phong giáp trận
Tửu hồ khuynh bạch tuyết hòa bôi
Dịch nghĩa theo lối thuận nghịch đọc là:
Chén hòa tuyết trắng nghiêng hồ rượu
Trận giáp phong thanh đánh cuộc cờ...
Làng tôi có một nghề nổi tiếng: nghề chẻ tre đan cót. Mỗi năm theo ước tính của nhiều người cũng đã có đến cả vài triệu mét cót và đủ loại vật dụng đan từ nan tre bán ra thị trường. Đó là nguồn thu nhập đáng kể bên cạnh việc làm ruộng.Vài năm trở lại đây, nghề đan tre suy vi hẳn, cả làng như mất đi sinh khí...
Trương Tri Bạch, tự là Dụng Hối, là người ở đất Thương Châu, thời Bắc Tống. Năm Đoan Củng thứ hai, ông thi đỗ Tiến Sĩ, rồi làm quan đến chức Ngự Sử. Năm Thiên Thánh thứ ba (năm 1025), ông đảm nhiệm chức vụ Tể Tướng. Năm Thiên Thánh thứ sáu, ông qua đời, được truy tặng chức Thái Phó, với thụy hiệu là Văn Tiết.
Thờ cúng tổ tiên là nghi thức tâm linh thể hiện quan niệm của con người về thế giới, theo đó, có một thế giới khác sau khi con người chấm dứt tồn tại thể xác. Thế giới đó có mối quan hệ gắn kết với thế giới hiện thực trong quan hệ hai chiều: con người ở thế giới hiện thực thể hiện tình cảm với người đã khuất và những người đã khuất có ảnh hưởng nhất định đến thế giới hiện tại. Một trong những ảnh hưởng có thể kiểm chứng ngay của những người đã khuất đến thế giới hiện tại là góp phần điều chỉnh, giáo dục con người thông qua hành vi thờ tự. Thờ cúng tổ tiên là nghi thức mang hiệu quả đặc biệt trong việc giáo dục chữ Hiếu, chữ Nhân, chữ Lễ, chữ Tâm là những phẩm chất cần thiết nhất để con người có thể được xem là hoàn thiện trong nhân cách.
Mồ mả tổ tiên, Nhà thờ Họ và Gia phả từ xưa đến nay luôn được các họ tộc coi trọng. Cây có gốc, suối có nguồn, con người có tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Việc thờ cúng tổ tiên và chăm lo mồ mả ông bà vừa là đạo, vừa là hiếu vừa là trách nhiệm của các thành viên dòng họ. Mỗi dòng họ, ngoài việc chăm lo mồ mả, thờ cúng tổ tiên thì việc ghi chép lại tên tuổi, thân thế, sự nghiệp và công đức của tiền nhân để lưu lại, giúp con cháu đời sau hiểu hơn về nguồn gốc tổ tông của mình.
Từ bao đời nay, mỗi người Việt đều coi mái đình, cây đa như một biểu tượng của làng quê truyền thống. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người đã có nhiều thành tựu ở một lĩnh vực nào đó thường được đồng nghiệp và xã hội coi là "cây đa, cây đề", biểu tượng cho sức làm việc quên mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú.